Cái phần thưởng của Thúc Sinh

15:35 06/04/2010
NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

Kiều đánh đàn cho Thúc Sinh và Hoạn Thư nghe - Ảnh: mekongnet.ru

Còn chàng Thúc, chẳng biết lần này chàng tiêu xài sao cho hết cái phần thưởng đồ sộ, dưới dạng “trả ơn” ấy! Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Phải, với tấm lòng một phu quân như Từ Hải, Thúy Kiều sẽ dễ dàng có điều kiện và tư thế để đáp tạ nhiều hơn thế. Song nàng vẫn nói về nó như một thứ gọi là. Ôi, sao mà đất trời rộng rãi thế! Ôi, sao mà chàng Thúc lại được có cái hậu sướng từ trong trứng sướng ra...

Cắt nghĩa sự tình này, nhiều người cho rằng Nguyễn Du vuốt mặt song còn nể mũi, trông người mà ngẫm đến ta. Đã tha cho Hoạn, thì tha thưởng cho Thúc một thể, là xứng đôi. Dẫu sao, Kiều cũng từng là vợ lẽ của Thúc, trước mặt Hoạn Thư, dù ở vai chánh án, nàng cũng không thể không nhớ cái điều mặn tình cát lũy, nhạt tình tao khang là xấu. Hơn thế, Thúy Kiều là người biết tình và nhiều tình, xử sự của nàng càng phải cận nhân tình hơn. Hầu như Thúc Sinh chưa bao giờ được vợ cả nói những lời ngọt ngào, tình tứ, Thúy Kiều cũng chưa bao giờ nói với Kim Trọng, Từ Hải những lời tình tứ sướt mướt đầy chất văn chương như nói với Thúc: Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Tại ai há dám phụ lòng cố nhân? Với Kim Trọng, khi đối diện chàng trong cuộc đoàn viên, Thúy Kiều nói câu nào buồn đau, chua chát câu ấy. Cũng phải. Dù sao, Thúc vẫn là người đầu tiên cứu nàng ra khỏi lầu xanh. Nàng còn nhớ, Mã Giám Sinh bày trò giả danh hầu hạ mua nàng làm lẽ mà hãi! Sở Khanh thông cảm dổm, bày tuồng trốn dổm mà ghê! Trong lúc Kim lang đang ở phương nào, thì Thúc là người thực sự đã cứu nàng ra khỏi lầu xanh. Xem ra, lời nói của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng cũng khác nhiều so với lời nàng nói với Thúc. Khi nhớ Kim, Kiều chỉ nghĩ Tiếc thay chút nghĩa cũ càng. Gặp chàng phút đoàn viên ngậm ngùi, nàng mơ màng nói Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa. Kim Trọng chẳng còn là người cũ, cố nhân của tình yêu nhiều mơ mộng nữa! Bởi vậy, trong đêm tái ngộ, Nguyễn Du thương cảm chàng mà ghi nhận cho chàng cái tâm trạng ngổn ngang Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình, còn chàng Kim lại thẹn và nói to cho cả nhà biết, rằng là “ không phải”, “ không có gì cả đâu!’

            Tình riêng chàng lại nói sòng,
            Một nhà ai cũng lạ lùng khen khao.

Ôi, ta tưởng tượng lúc ấy Thúy Kiều sẽ ngậm ngùi, cay đắng biết bao. Nàng chẳng còn được Kim tin yêu nữa. Chàng nói to lên với mọi người sự “ trong trắng” của mình mà làm gì! Chàng đâu biết đấy là sự coi thường, chà xát, sỉ nhục Thúy Kiều! Chàng thành thật “ trần trụi” quá đáng! Và chàng cũng vô tình để lộ một tình yêu đã chết! Nó không hóa giải nổi mặc cảm mười lăm năm của Thúy Kiều...

Còn nhớ, hình như trong những người khen Thúy Kiều (mà Kim Trọng là người khen đầu tiên), không ai có lời khen nàng xứng đáng, trân trọng cho bằng lời khen của vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư!

Lần Kim Trọng được Thúy Kiều đề bốn câu thơ trên bức tranh “Đạm thanh tùng” của chàng, Kim vui sướng quá vì tình yêu mới chớm mà khen mà nói dài dài về tài nghệ của Thúy Kiều, nghe có vẻ “khách khí”.

            Khen tài nhả ngọc phun châu,
            Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế vầy!
            Kiếp tu xưa ví chưa dày,
            Phúc nào nhắc được giá này cho ngang.

Hình như lúc ấy Thúy Kiều cũng thấy thế nào ấy, nên nàng đã nói lảng một cách thật thông minh:

            Nàng rằng: “ Trộm liếc dung quang,
            Chẳng sân ngọc bội thời phường kim môn”

(Ý nôm na của câu này là, “ thiếp trộm liếc vẻ mặt sáng sủa của chàng, chàng không phải là con nhà giàu thì cũng là con nhà sang?”

Thúc Sinh từng làm thơ ca ngợi vẻ đẹp thể chất của Kiều, chàng cũng đề nghị quan xử kiện cho Kiều được làm thơ và Thúy Kiều được quan cảm phục vì bài thơ Cái gông mà tha bổng cho Thúc Sinh và Thúy Kiều. Hoạn Thư thì ví chữ của Thúy Kiều với chữ của Vương Hy Chi và còn cho rằng nếu số giàu sang Thúy Kiều cũng sẽ được những người như vua Hán xây nhà vàng cho ở!

Ôi, nếu biết sau này Thúy Kiều được Thúc Sinh, Hoạn Thư đánh giá tài năng của nàng ngang với những người đàn ông nổi tiếng, biết Thúy Kiều được Từ Hải khen rằng mắt xanh chẳng để ai vào...chắc là Kim Trọng sẽ giật mình, than tiếc lời khen của mình không đáp đúng tâm lý của Thúy Kiều. Ai lại khen đàn bà giống đàn bà! Vì đang yêu, nên đầu óc chàng Kim cứ lởn vởn những bóng hồng! Tâm hồn chàng cứ đầy ứ sự ngưỡng mộ những người đẹp tài hoa!

Hoạn Thư thì vì không toại ý về chồng nên cũng dễ tôn thờ những người đàn ông tài hoa, phong nhã. Thúy Kiều cũng cần khẳng định cá tính của mình nên nàng thật thích những ai biết khen nàng không kém đàn ông!

Hoạn Thư và Thúc Sinh khen nàng như thế, lẽ nào Thúy Kiều không mở lòng từ mà tha cho họ! Hơn nữa, Hoạn Thư cũng đã coi Thúy Kiều là trượng phu, quân tử có lượng hải hà:

            Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?

Ôi, người ta sẽ vì tiếng khen mà quên hết! Thúy Kiều cũng sẽ chóng quên mọi điều tủi nhục, đoạ đày ở nhà Hoạn Thư mà tha cho đôi vợ chồng ấy. Nàng đã muốn mình như quân tử, trượng phu, nàng đã được đôi vợ chồng Thúc Hoạn khen những lời xứng đáng, lẽ nào mà cứ quyết làm ra để... mang tiếng con người nhỏ nhen?

Thúy Kiều tha cho vợ chồng Thúc- Hoạn là phải.

Còn cái phần thường của Thúc Sinh?

Có lẽ, người gặp khó trong cuộc này là Thúc Sinh. Hẳn chàng không dám đem cái phần thưởng ấy khoe với Hoạn Thư. Không, chàng là người quen thói buôn bán riêng, ăn riêng, làm riêng, chơi riêng. Số tiền thưởng ấy, chàng sẽ ăn chơi theo tập quán quen thói bốc rời và giương cao cái tật cố hữu nào ai có khảo mà mình lại xưng? Thúc thừa biết, nếu chàng “ dại” mà khoe cái phần thưởng oái ăm ấy, chắc chắn một người sâu sắc nước đời như Hoạn Thư sẽ không tha cho chàng, dù là lần cuối. Văng vẳng bên tai chàng sẽ là những câu nói thơn thớt của Hoạn Thư. Đại loại như thế này:

Chàng còn ngốc lắm, Thúc ạ. Chẳng qua Thúy Kiều mua lại “ chuông vàng khánh bạc” của nhà ta đấy thôi. Ngày ả ra đi, ả mượn mà ta đâu có đòi? Nay nó biến thành phần thưởng đó, chàng ạ.

Hoặc là như thế này:

- Chàng phải khôn ra, Thúc ạ. Cái phần thưởng ấy là tiền chàng chuộc Thúy Kiều từ tay Tú Bà đó. Thúy Kiều khéo léo trả lại cho chàng ấy mà. Xem ra, Thúy Kiều còn khôn hơn cả thiếp đây. Chàng đã “ thấm” chưa?

Ôi, cái phần thưởng của Thúc Sinh...

N.T.Đ
(135/05-00)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.