TÔ NHUẬN VỸ
Chỉ còn ít ngày nữa khai mạc Liên hoan Ảnh nghệ thuật của 6 tỉnh Khu 4 cũ nhưng Ban tổ chức vẫn chưa "phát hiện” ra một địa điểm nào trong thành phố có thể trưng bày 180 bức ảnh (mỗi tỉnh tuyển chọn gởi đến 30 bức).
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ (bìa trái) khoảng thập niên 90 - Ảnh tư liệu
Thực ra, nếu chỉ tính về diện tích thì cũng có. Đó là 47 Trần Hưng Đạo, vốn là Nhà Thông tin từ lâu trước giải phóng. Ngay cả Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin - Thể thao và Giám đốc Sở Tài chính - Vật giá cũng nói với tôi là chỗ ấy không được. Một đồng chí lãnh đạo hàng đầu của tỉnh cũng nói với tôi, triển lãm ở đấy không ai xem đâu. Lý do rất giản dị: đó là dãy phố tất bật buôn bán, mật độ người xe qua lại đông đặc, lại vốn chỉ thích hợp cho việc thông tin thời sự, bây giờ cầu Tràng Tiền tắc thì nơi đó lại là một địa điểm "cụt”. Thế là chúng tôi lang thang đi tìm... Chỉ có một chỗ duy nhất khả dĩ được về diện tích, được về cảnh quan và trên trục đường qua lại của nhiều người quan tâm đến nghệ thuật này - Đó là Nhà văn hoá Hữu nghị. Nhưng nó đã được ký hợp đồng lâu dài với tư nhân để chiếu Vidéo suốt ngày đêm. Muốn sử dụng thì phải "ký hợp đồng" lại cùng tư nhân ấy với cả số chi phí bao luôn mấy buổi chiếu trong ngày, bên cạnh tiền mượn địa điểm, chưa tính chi phí lớn trang trí lại nội thất. Chúng tôi buồn bã đầu hàng và càng buồn hơn khi trông thấy ở đây, cái bể bơi duy nhất của thành phố đang khô rốc, trơ ra mấy đường nứt toác lớn và chung quanh um tùm khoai, sắn, cỏ hoang. Một địa điểm, một nhà trưng bày và triển lãm văn hóa, nghệ thuật của một "trung tâm văn hóa” nó đang ở đâu? Ở đâu?.
Nhớ lại năm ngoái, một nữ nghệ sĩ piano nổi tiếng của Paris, trong dịp cùng gia đình du lịch đến Huế, có nhã ý biểu diễn 2 buổi nhân kỉ niệm 200 năm Mozart, số tiền thu được (nếu có bán vé) cô ủng hộ cho các hoạt động văn hóa của Huế. Ban Tổ chức bàn bạc rất kỹ, chu đáo chương trình biểu diễn, đón tiếp... Nhưng bất ngờ lại ở một khâu bất ngờ nhất: nữ nghệ sĩ trực tiếp đến nhiều nơi, kể cả tư gia, để thử đàn, nhưng không tìm đâu ra một cây đàn piano đúng chuẩn mực âm thanh, kể cả cây piano của Trường Cao đẳng nghệ thuật! Một trung tâm văn hóa không có nổi một cây đàn... Buồn làm sao. Có người nói, đó là chuyện vặt. Chuyện vặt ư? Một đồng chí lãnh đạo có trình độ văn hóa sâu rộng, trong buổi trao đổi về việc hình thành một tổ chức khoa học, đã buồn bã lắc đầu: nhiều chuyên ngành khoa học xã hội ở một "trung tâm văn hóa” như Huế lại không có cán bộ đầu đàn.
Đó có phải là chuyện vặt không?
Hôm ấy tôi cũng buồn mà nói với anh rằng: Đã trên dưới mười năm nay, ở đây, các nhà, các vị đầu đàn ấy, không hề được thêm. Ngược lại, mất dần đi. Anh không thấy có một cái gì đó không ổn sao?
* * *
Chuyện Festival Việt - Pháp vừa rồi nữa. Có ý kiến hết sức gay gắt: tốn phí vô ích, mấy trăm triệu vứt xuống sông xuống hói, rốt cuộc Tây cho lại được mấy đồng?
Tiếc thay, suy nghĩ ấy có ở không ít người, kể cả người có trách nhiệm và "có văn hóa". Với họ, cái lợi phải được "mục sở thị”, phải đếm được và nắm được "chắc" trong tay đã mới gọi là lợi. Với tư duy theo kiểu "mỳ ăn liền" ấy thì thì việc phục hồi những điệu vũ truyền thống, độc đáo, các chương trình lễ nhạc cung đình đặc sắc và ca Huế trữ tình đằm thắm, gần chục địa điểm trưng bày các tác phẩm nghệ thuật, các lễ hội dân gian tưng bừng nhiều màu sắc, hàng vạn người dân thành phố có những phút giây tự hào về truyền thống quê hương..., những việc mà từ đó bè bạn trong nước đánh giá là đã lộ ra một mỏ quặng văn hóa, một mỏ quặng mà nếu được khai thác thì đó sẽ là một trong những thế mạnh nhất của ta thu hút nước ngoài, với họ, tất cả những chuyện đó đều là chuyện vặt, nếu như kết thúc Festival mà Tây không cho hoặc hứa cho được... một cục tiền. Và chính với tư duy thiển cận và không coi trọng văn hóa nghệ thuật ấy, họ cũng mất luôn cái nhìn nhạy cảm chính trị cần có trong giai đoạn mở cửa, một cuộc tập dượt rất cần thiết, một "cú mở màn" đối ngoại dù còn lắm khuyết điểm nhưng khá ngoạn mục, trước thời điểm bỏ cấm vận của Mỹ, của một trong mấy thành phố ở nước ta chắc chắn sẽ có quan hệ nhiều với nước ngoài sắp tới. Qua cuộc tập dượt này, Thừa Thiên Huế hiểu mình hơn và hiểu Tây hơn (cả chuyện hay lẫn chuyện dở), từ những chuyện lớn về ngoại giao cho đến những nguyên tắc, quy định cụ thể trong làm việc (có đ/c trong Ban tổ chức sau hơn một tháng làm việc với Pháp, với không ít lần "trục trặc", kể cả "trục trặc chết người" đã gật gù: "Té ra Tây là rứa đó!”)
Nhưng, ngay trong những người làm công tác văn hóa nghệ thuật đâu có phải ai ai cũng và lúc nào cũng coi trọng văn hóa. Kiến trúc sư đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành các tiêu chí để từ đó quyết định xếp hạng các đô thị ở nước ta. Các tiêu chí đó được nghiên cứu, tính toán và sắp xếp rất kỹ lưỡng: bao nhiêu dân, khả năng điện lực, hệ thống nước sản xuất và tiêu dùng, các loại đường sá, số lượng nhà máy, thu nhập quốc dân và thu nhập đầu người... Cái gì, mặt gì cũng được tính đến, chỉ trừ duy nhất một lĩnh vực bị quên "ngon lành": đó là lãnh vực văn hóa. Mà đó là lãnh vực mạnh nhất của Huế: cả một quần thể di tích lịch sử văn hóa lớn nhất cả nước ta, một truyền thống ca nhạc và sân khấu nổi tiếng, một truyền thống văn hóa bác học và dân gian sâu đậm, vì vậy sự quên lãng có ý thức và có truyền thống đó, Huế bị đánh tụt xuống thành phố hạng ba là lẽ đương nhiên.
Được phát biểu tại hôi nghị BCH Hội Kiến trúc sư Việt Nam vừa qua tại Huế, sau khi xót xa và thẳng thắn phê phán tư tưởng coi văn hóa, văn học nghệ thuật là "đầu thừa đuôi thẹo", thậm chí không được chú ý như một mẩu đầu thừa đuôi thẹo, thể hiện ngay trong các tiêu chí Nhà nước xếp hạng các đô thị, mà tiêu biểu là từ đó xếp Huế là thành phố hạng ba, vị giáo sư nguyên chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước này, đã gặp tôi thanh minh và "chân thành nhận lỗi với Huế" và ông đề xuất kiến nghị với Trung ương xếp Huế vào loại thành phố đặc biệt.
* * *
Dạo này rõ ràng khách nước ngoài và khách trong nước đến Thừa Thiên Huế nhiều hơn trước đây gấp bội. Các cuộc hội thảo, liên hoan, gặp gỡ, hội nghị khu vực, chuyên ngành, toàn quốc và quốc tế, ngày một nhiều và có lúc là dồn dập. Cho dù điều ấy khiến tỉnh và thành phố nhiều lúc bị động, tốn kém, vất vả, nhưng dù sao đó cũng là một tình hình đáng mừng, không nên tránh mà nên tranh thủ. Những người đến đây, chắc phần lớn họ đều quý trọng truyền thống văn hóa của chúng ta. Phải tranh thủ tối đa từ một ý kiến đề xuất cho sự đóng góp cụ thể (sự đóng góp ấy cũng lại từ nhỏ đến lớn) giúp chúng ta phát huy sức mạnh truyền thống và cơ sở tối thiểu cho văn hóa nghệ thuật. Muốn tranh thủ được sự giúp đỡ về văn hóa thì trước hết chính chúng ta phải biết tự tôn trọng văn hóa, tôn trọng văn hóa quê hương mình. Sự tự tôn ấy phải bằng những việc làm cụ thể chứ không chỉ từ lời nói. Sự gọi kêu cũng từ việc làm cụ thể chứ không chỉ từ lời nói. Ngay với những người "luôn coi văn hóa là cái đầu chứ không phải là cái đuôi, nhất là đối với Huế” (số này thực ra rất ít, những người quý hóa ấy mà lại có tiền nữa thì lại càng ít nữa) cũng rất cần những cái neo, neo hảo tâm của họ ở lại với chúng ta. Những cái neo ấy là cái tầm và cái tâm văn hóa trong giới lãnh đạo, là sự vồn vã chân thành, cách thức làm việc hiệu quả, tránh cả thái độ thực dụng lẫn bay bướm rườm rà trong hệ thống chuyên viên. Vừa qua, Hội Những người bạn của Điềm Phùng Thị tại Pháp (Association des Amis de DIEM - PHUNG - THI) đã cử Tổng thư ký (ông Christian Pattyn) và Kiến trúc sư trưởng (ông Antoine Debré) qua làm việc với Thừa Thiên - Huế về dự định thành lập tại Huế một Nhà của Những người bạn ĐIỀM PHÙNG THỊ (Maison des Amis de Điem - Phung - Thi)
Nhà ấy sẽ xây dựng để có thể hoạt động với ba nội dung:
- Trưng bày những tác phẩm của Điềm Phùng Thị.
- Trưng bày những tác phẩm nghệ thuật của Thừa Thiên - Huế, Việt Nam và Quốc tế.
- Hoạt động kinh tế từ thế mạnh của nghệ thuật, văn hóa (như hàng thủ công mỹ nghệ...)
Trong lúc làm việc tôi cứ ngẫm nghĩ mãi mà cảm động: một đoàn ông bà Tây "mắt xanh mũi lõ", với danh nghĩa lãnh đạo và thành viên của một tổ chức mà thành lập và hoạt động là do tài năng, uy tín của người phụ nữ Việt Nam khiến cái tầm và cái tâm văn hóa của họ bị thôi thúc thành mong muốn quảng bá cái tài văn hóa ấy cho bá tánh thưởng lãm. Người đàn bà Việt Nam bé nhỏ và đã 72 tuổi, muốn cuối đời được đưa tác phẩm của mình về quê hương, muốn làm một việc có ý nghĩa (có lẽ là cuối cùng) đối với quê hương thắm thiết, nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị, người Việt Nam duy nhất có mặt trong từ điển các nhà nghệ thuật lớn nhất thế kỷ 20, cuốn từ điển mới vừa xuất bản rất công phu và sang trọng tại Pháp. Địa điểm (trước mắt và lâu dài) đã được chọn và đang chờ quyết định của tỉnh và thành phố. Các bạn Pháp muốn sớm được bắt tay vào việc. Chị Điềm Phùng Thị thì nói với một nỗi lo rất con người: "Tôi già quá rồi, không đợi lâu được". Sài Gòn, Hà Nội, Nha Trang... lại đang muốn kéo cái Nhà này về với họ, chúng ta có cái neo nào để neo cái Nhà rất văn hóa này lại Huế không? Thực lòng mà nói, tôi nửa tin nửa ngờ.
Vì trước mắt tôi vẫn là hình ảnh cái đuôi thẹo quỷ ám ấy, không hiểu sao cắt kỳ hoài mà nó vẫn không đứt.
T.N.V
(TCSH50/07&8-1992)
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.