PHẠM XUÂN NGUYÊN
“Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - Ảnh: internet
Nghĩa là hoàn cảnh, không khí của một thời không thuận lợi cho người cầm bút, buộc họ luôn phải sợ hãi, nơm nớp cho số phận mình, phải dè dặt, canh chừng cho ngòi bút mình, từ đó đưa đến “cái hèn” của nhân cách người viết. Người khác làm cho mình sợ mà trở nên hèn! Hoàn cảnh của đời sống văn học trước đây bị phê phán chính từ phía này. Điều đó đúng nhưng không đủ. Và sẽ là thiếu sót, sẽ là không toàn diện, nếu các bài viết đánh giá quá khứ chỉ bằng lòng dừng lại ở mức độ phê phán cái bên ngoài, hoàn cảnh bên ngoài như vậy. Chúng ta là những người theo chủ nghĩa Mác, do đó chúng ta phải có tinh thần biện chứng khách quan và lịch sử. Trong mối quan hệ hoàn cảnh và tính cách, Mác đòi hỏi phải cải tạo hoàn cảnh để có “tính người hơn”, mặt khác Mác cũng nhấn mạnh đến tính tích cực chủ động của tính cách trở lại hoàn cảnh. Và Mác đã dạy: “Căn bản nghĩa là xét sự vật tận gốc rễ của nó. Mà gốc rễ của con người chính là bản thân con người”. Nói đến tình trạng kém phát triển hoặc phát triển không đồng đều của văn học ta giai đoạn trước không thể không đụng chạm đến chính ngay sự kém cỏi của người cầm bút. Sự kém cỏi đây tôi muốn nói là “cái hèn” do chính những người cầm bút gây ra cho mình. Mình tự làm hèn mình!
Văn học cách mạng Việt Nam có một Nguyễn Tuân. Chúng ta có thể tự hào cho Nguyễn Tuân, tự hào về Nguyễn Tuân, tự hào vì Nguyễn Tuân, nhưng chúng ta không thể lấy Nguyễn Tuân để làm niềm tự hào thay cho mình được. Bởi một lẽ: Nguyễn Tuân không muốn và không tự làm hèn mình đi như phần đông chúng ta. Nguyễn Tuân mất, hàng loạt bài viết ca tụng văn tài ông, đặc biệt ca tụng phẩm chất cương trực thẳng thắn của ông, ca tụng cái đức “không chịu hèn” của một người cầm bút trung thành với chính mình. Vẻ vang cho ông và cũng may mắn cho ông biết bao! Ông chết thật hợp thời - cái thời cho phép những đồng nghiệp của ông được nói thoải mái về ông như chính ông vốn có và như điều họ nghĩ về ông. Mừng cho sự ra đi đầy vinh quang của Nguyễn Tuân, có người nhớ lại tiếc cho Xuân Diệu mất sớm hai năm trước không hưởng được đầy đủ những lời ngợi khen mình đích thực… Thế đấy, “Cái hèn” tự cho mình mà ra. Thôi thì thà im lặng, thà chịu mang lỗi với vong linh người đã khuất, chứ ít ai dám vượt lên mình để nêu cao một giá trị, khẳng định một nhân cách. Mặc dù cái gọi là hoàn cảnh bên ngoài ràng buộc ở đây không phải đến mức như tưởng tượng lo sợ.
Nhiều người đã nói đến cấm đoán, bắt bẻ, kiểm soát từ trên xuống đối với những trang viết. Nhưng có phải vì thế mà người cầm bút tự cho mình “được hèn” để viết xuôi chiều, dễ dãi không? Vấn đề ở đây không nên hoàn toàn đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho lãnh đạo. Nguyên nhân chính phải tìm ở trong mình. Nguyễn Tuân không chiều ai, không lụy ai, ông lừng lững đi tới trong cuộc đời và trong văn học, ông chỉ tôn thờ một sức mạnh duy nhất: sức mạnh của cái thật và cái đẹp. Xuân Diệu có nơi phải rào đón, phải né tránh, nhưng cái gì ông có, cái gì là của ông thì không giấu được, bằng cách này hay cách khác ông phải nói ra, phải lộ ra cho mọi người nghe và thấy. Nói thực ra hai ông cũng đã có một lúc, như nhiều người cầm bút khác, muốn chối bỏ mình, cắt đứt mình giữa cái hôm qua và cái hôm nay, giữa thời “tiền chiến” và thời cách mạng. Nhưng bằng chính bản chất con người và bản lĩnh nghệ sĩ của mình, hai ông đã hiểu cách mạng, chấp nhận đi với cách mạng đến tận cùng cá tính sáng tạo đích thực của tài năng mình. Cho nên giả dụ Nguyễn Tuân, Xuân Diệu khi nằm xuống chưa được đánh giá đúng, chưa được hiểu kỹ hiểu sâu thì thời gian và công chúng sẽ trả lại chân giá trị cho các ông dựa trên những trang sách thật mình của các ông để lại. Còn những người cầm bút khác thì không được như thế. Họ cam chịu hèn nên họ đánh mất mình. Tôi cứ có cảm giác tiếc. Giá như bây giờ bên cạnh những lời chỉ trích, phê phán lớn tiếng đối với quá khứ, có được một số tác phẩm viết ngay từ hồi ấy đem in ra. Buồn thay có rất ít những tác phẩm như thế hoặc hầu như không có chúng. Những người cầm bút chúng ta tính hiền quá, bản lĩnh thường quá, nên không phải là không thấy không nghĩ trước thực tế cuộc sống, nhưng hoặc là im lặng không dám viết, hoặc là viết không đúng với điều mình tâm niệm. Những ngày này chúng ta hay nhắc đến Nam Cao. Bài học đời văn của Nam Cao, theo tôi, trước hết là sự trung thực của ngòi bút đối với mình, với sự thật Nam Cao, cũng như Lỗ Tấn, từng đã bị chửi mắng, bị dọa đánh khi những hình tượng văn học do ông xây dựng nên mang những nét bản chất, điển hình của nhiều trường hợp xã hội. Nếu sợ, ông có thể viết khác đi, quay tráo ngòi bút lại. Nếu hèn ông có thể thôi viết, giữ lấy cái sự yên thân. Nhưng không, thiên chức và trách nhiệm của một người cầm bút chân chính đã buộc ông phải tiếp tục viết cái cần viết, dù có vì thế mà ông chuốc thêm nhiều sự khó khăn, phiền toái. Ngẫm cho kỹ, toàn bộ các tác phẩm Nam Cao viết về người trí thức cũng chỉ xoay quanh một chủ đề duy nhất là căn bệnh “mình tự làm hèn mình” của tầng lớp này. Vì cái hèn tự thân đó, nên những Điền, Hộ, Thừa, Thứ… suốt đời chỉ biết cam chịu số phận, nhẫn nhục với hoàn cảnh, tự ru ngủ với những ảo tưởng, mơ ước suông mà không đạt đến một cái gì cụ thể, có thực. Nam Cao ý thức rất rõ căn bệnh này của tầng lớp mình và cũng rất có ý thức ông cố gắng vượt lên mình, chiến thắng bản thân mình để tác phẩm viết ra trung thành với hiện thực cuộc sống. Nhà văn đứng cao hơn các nhân vật của mình và những trang viết của ông là một bằng chứng sinh động về sự dũng cảm của người cầm bút trước thực tại xã hội. Nam Cao còn lại cho chúng ta suy tôn hôm nay phần lớn là ở chỗ đó. Ca ngợi ông, đồng thời chúng ta thấy xấu hổ trước ông vì không nhận được như ông dám công khai thừa nhận cái hèn, cái yếu của mình.
Nhân đây tối muốn nhắc đến một tình hình ở Liên Xô để chúng ta cùng suy nghĩ. Cải tổ trong văn học Liên Xô hiện nay có một mặt là cho công bố một loạt những tác phẩm được viết ra trong các giai đoạn trước đây mà không được in. Các nhà văn Xô viết sống trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn của những năm 30, những năm 50 – 60 vẫn trung thực tận cùng với chính mình, với bổn phận cao quý của người cầm bút để dám viết nên những tác phẩm xuất sắc, phản ánh chân thực cuộc sống và con người những thời kỳ lịch sử ấy, bất chấp mọi sự đàn áp, đe dọa, thậm chí cả lao tù, khổ nhục. Trường hợp B. Pasternak và tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago ai cũng đã rõ. Hay lấy ví dụ nhà thơ đương đại đang rất nổi tiếng là Evgeni Evtusenco. Báo Tuần lễ, số ra tháng 11-1987 vừa đăng bài thơ của ông nhan đề Những kẻ thừa kế Xtalin viết từ năm 1962. Một phần tư thế kỷ đã trôi qua giữa thời điểm bài thơ viết ra và thời điểm nó được đăng lên. Nhưng điều quan trọng và có ý nghĩa là E. Evtusenco đã viết bài thơ này vào chính hồi đó. Khi ấy E. Evtusenco chưa phải đã có tiếng tăm, chỉ mới nổi lên trong làn sóng thơ “tạp ký” nhưng bằng sự nhạy cảm của một nhà thơ và tinh thần dũng cảm của mình một công dân ông đã dám viết điều mình thấy, mình nghĩ. Nhân việc quan tài của Xtalin bị đưa ra khỏi Lăng, nhà thơ nêu lên một vấn đề mang tính tư tưởng, chính trị lớn: làm sao mang được Xtalin ra khỏi những kẻ thừa kế Xtalin? Bởi vì những kẻ này:
Một số về hưu trồng hoa chơi cảnh
Nhưng vẫn cho rằng hưu chỉ tạm thôi
Số khác lên diễn đàn chửi Xtalin hết lời
Nhưng đêm đêm vẫn nhớ về thời cũ
Bài thơ kết thúc bằng một nỗi lo của tác giả.
Chừng nào những kẻ thừa kế Xtalin còn đó
Thì tôi cho rằng Xtalin vẫn còn ở trong Lăng.
Thật mạnh bạo, quyết liệt ở tính cách của người cầm bút này? Dù bài thơ không được in ngay khi đó, bây giờ in ra giá trị thời sự và giá trị nhân văn của nó vẫn lớn, nó càng làm vẻ vang thêm cho tài năng nhà thơ. Còn ở nước ta – xin hãy nghe một lời tâm sự: “Tôi bèn đem những bài thơ riêng chưa in của mình trước đây ra đọc. Những bài thơ trước đây tưởng như sâu sắc lắm, hóa ra lại không đạt tới những điều hôm nay có thể in, có thể nói” (Vân Long, báo Văn nghệ, số 47 & 48, 21-11-1987). Vấn đề ở đây là bản lĩnh và tầm vóc của người cầm bút, tức là nội lực chủ động của anh, chứ không phải cứ thụ động ngồi chờ cái “hích” từ bên ngoài rồi khi được thì hoan hỷ tâng bốc, khi không được thì trách móc đổ lỗi.
Trong bài nói chuyện với các văn nghệ sĩ gần đây, đồng chí Tổng Bí thư nói: “Tôi có cảm giác trong hơn 10 năm qua (từ khi nước nhà thống nhất, cả nước đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội), so với hai cuộc kháng chiến trước đó thành tựu của văn học nghệ thuật của chúng ta còn nghèo. Trong hai cuộc kháng chiến, các đồng chí đã đóng góp sức nhiều, có công rất nhiều, có tài rất nhiều. Nhưng 10 năm qua thì không được như thế. Tôi nói nghèo là ý như vậy”. Bài tường thuật còn ghi thêm ý đồng chí Tổng Bí thư nói là nếu không đúng thế thì tôi mừng, còn nếu đúng thế thì tại sao? Thật rõ ràng. Đây là một cuộc đối thoại dân chủ, thẳng thắn, cởi mở, trong đó đồng chí Tổng Bí thư chỉ nêu lên một cảm giác (Tôi nhấn mạnh – PXN) của mình và chờ nghe ý kiến bàn bạc, trao đổi của các văn nghệ sĩ chứ không hề là một nhận định có tính áp đặt, bắt buộc phải tuân theo. Một số người đã trả lời thẳng câu hỏi đó của đồng chí Tổng Bí thư: Văn học nghệ thuật của ta từ hơn 10 năm nay nghèo thật. Hãy để sang một bên việc đánh giá tình hình văn học như thế nào, tôi chỉ muốn nói đến thái độ của người cầm bút trong trường hợp này. Anh nói “nghèo” và trước đồng chí giữ vị trí cao nhất của Đảng anh đã dám nêu ra nguyên nhân của nó là hệ thống quan niệm và lãnh đạo văn nghệ chưa phù hợp, chưa đặc trưng. Và nên nhớ đây là chỉ nói khoanh lại trong khoảng thời gian hơn 10 năm kể từ ngày giải phóng đất nước. Như thế mặc nhiên có thể hiểu là anh đặt văn học nghệ thuật trong hai cuộc kháng chiến trước đây vào phạm trù “giàu” và tìm ra nguyên nhân của nó khác với trên. Nhưng đọc một số bài viết gần đây của những người có tham gia cuộc gặp tôi thấy người viết có ý như phủ nhận gần hết thành quả của văn học hai cuộc kháng chiến, cho nó gần như là không có gì vì nào là minh họa, nào là sơ lược, nào là một chiều và quy tất cả nguyên nhân lại vẫn là do bị lãnh đạo không đúng. Có một cái gì không logic ở chỗ này. Và cái không logic đó, tôi nghĩ, vẫn là từ “cái hèn” tự thân cố hữu của người cầm bút mà ra. Rồi đây việc đánh giá lại các giai đoạn phát triển văn học nghệ thuật sẽ phải được làm với một tinh thần khách quan, lịch sử và khoa học. Nhưng dù thế nào, người cầm bút cũng phải xác định được rõ cho mình chỗ đứng của người trong cuộc và trách nhiệm bản thân về chỗ đứng ấy, chứ không nên đổ cho người khác là thủ phạm chính, còn anh vốn mạnh nhưng vì cùng đường bí lối nên hóa hèn. Anh tuyên bố dõng dạc, hùng hồn: Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa! Được thôi, nhưng cái giai đoạn ấy do đâu mà có? Do lãnh đạo, do từ trên ấn xuống, do một cái hành lang thấp và hẹp được vạch sẵn, do các sự quy chụp v.v… đồng ý, nhưng tập hợp nhiều cái “do” ấy đều là ở ngoài anh, chúng có thể gây trở ngại và kìm hãm rất lớn, tuy nhiên tác hại của những cái đó tăng lên chính là do anh không dám là chính anh, do anh không tự trở thành là mình. Cervantes tạo ra Don Quichotte, Lỗ Tấn tạo ra A.Q. được nổi danh không ở chỗ nói cái xấu hay không nói cái xấu của dân tộc mình, mà ở chỗ họ thấy được sự thật đó và đã nói được nó lên. Cố nhiên cần phải mở không gian rộng rãi tạo điều kiện thuận lợi cho các tài năng cầm bút tự do phát triển. Nhưng xưa nay những tài năng chân chính, đích thực không bao giờ tự bó hẹp mình, tự chôn vùi mình dù trong hoàn cảnh nào. Không một quyền uy nào, một áp lực nào của bất kỳ ai có thể buộc được người cầm bút xã hội chủ nghĩa phải bẻ cong ngòi bút của mình, nếu chính người cầm bút không tự bắt mình bẻ cong ngòi bút.
12-1987
P.X.N
(SH31/06-88)
ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.
LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.
TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.
PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!
NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.