Cái gọi là “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX”

15:41 28/10/2008
NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

1. Tham vọng quá lớn nhưng...
Có lẽ, những người tổ chức cuộc bình chọn chưa lường hết được sự phức tạp, khó khăn của công việc. Trong hàng chục vạn bài thơ Việt thế kỷ XX, chọn ra được 100 bài thơ xuất sắc nhất tiêu biểu cho nền thi ca nước nhà là việc khó vô cùng. Đã có không ít tuyển tập thơ hay Việt thế kỷ XX do một số nhà thơ chọn nhưng chưa có công trình nào thoả mãn được yêu cầu của người cầm bút và bạn đọc. Tuy nhiên, sự chọn lựa ấy luôn mang dấu ấn cá nhân của người làm tuyển và họ trực tiếp chịu trách nhiệm trước công chúng. Trung tâm Văn hoá doanh nhân có cách làm khác “tinh khôn” hơn rất nhiều là họ tổ chức cuộc bình chọn cho công chúng. Công chúng sẽ suy tôn ban tổ chức lên cao khi cuộc bình chọn thành công và cũng là bức bình phong che chắn cho họ khi cuộc chơi có vấn đề. Theo tôi, thì cuộc bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX đã thất bại về cách tổ chức và kết quả cụ thể.

Nói tham vọng quá lớn là nói đến tiêu chí của cuộc bình chọn được đề ra quá cao so với đối tượng dự thi. Nếu như Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục chỉ đề ra tiêu chí bình chọn 100 bài thơ Việt Nam thế kỷ XX được yêu thích nhất thì có lẽ vừa tầm hơn. Đằng nay, như kẻ “duy ý chí” các vị tổ chức cuộc bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX thì quả là quá sức, quá tải. Thẩm định thơ không phải là chuyện dễ và không phải ai cũng đủ tài để có cái nhìn bao quát nền thi ca dân tộc kéo dài suốt một thế kỷ.
Tham vọng quá lớn trong khi đó cách tổ chức thì thiếu khoa học, phiến diện. Cuộc bình chọn sẽ có độ chính xác cao khi đối tượng tham dự vừa đông đảo vừa mang tính đại diện cho nhiều tầng lớp công chúng yêu thơ Việt . Cuộc bình chọn do Trung tâm Văn hoá doanh nhân tổ chức không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu đó. Điều này đã được chính ngay nhà văn Lê Lựu - giám đốc Trung tâm - thừa nhận: sự bình chọn chủ yếu là sinh viên và học sinh trung học tham gia... (Evan - 07/3/2007). Nhiều đối tượng công chúng yêu thơ khác không tham gia đông đảo vào cuộc bình chọn này như các nhà thơ, nhà phê bình, nhà giáo, bộ đội, công nhân, nông dân... Tôi ngờ rằng, chỉ một số rất ít công chúng yêu thơ Việt biết Trung tâm Văn hoá doanh nhân tổ chức cuộc bình chọn này. Khi đối tượng công chúng tham gia bình chọn, vừa ít, vừa không đầy đủ thành phần xã hội thì kết quả lựa chọn làm sao chuẩn xác cao được.
Mặt khác, thì đây là cuộc bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX chứ không phải là chọn 100 tác giả có thơ hay nhất trong 100 năm ấy. Vậy thì, không lý gì phải cứng nhắc chọn 1 tác giả 1 bài thơ. Thực tế, trong thế kỷ XX không phải không có những tác giả có hơn 1 bài thơ hay nhất Việt . Có vẻ như cuộc bình chọn đã được lái theo chủ ý cứng nhắc của ban tổ chức và hội đồng thẩm định. Bởi không ít người nghi ngờ về một số tác giả, một số bài thơ được chọn trong tập “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” này.

2. Đây chưa phải là 100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX.
Do việc bình chọn chỉ được tiến hành trong một đối tượng hẹp lại có vẻ như được sự can thiệp của ban tổ chức nên kết quả bị sai lệch khá lớn. Cái sảy nảy cái ung, từ cách tổ chức thiếu khoa học, cẩn trọng nên những gì đã được trình bày trong tập “100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX” không những không tôn vinh thoả đáng cho nền thi ca dân tộc thế kỷ qua mà còn gây bức xúc trong nhiều người viết, người đọc. Một nhà thơ (thành viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn VN) có thơ chọn trong tập đã bực bội nói với tôi rằng: bài ấy đâu phải là bài hay nhất của mình, chọn thế chỉ tội làm cho thơ mình thấp đi thôi. Có vài nhà thơ đang định cư ở nước ngoài rất xa lạ với các nhà thơ trong nước, chứ đừng nói tới sinh viên học sinh cũng được chọn thơ hay nhất thế kỷ XX. Liệu, có điều gì quanh co ở đây không? Tôi đã nghe không ít người đặt câu hỏi như thế. Tôi đã đọc thơ in trong tập của các vị đó, không thể gán cho nó là hay nhất Việt thế kỷ XX được. Và, đáng buồn nhất là không ít bài thơ hay của Việt đã không được công chúng bình chọn để mắt tới. Tại sao không chọn “Việt Bắc” hoặc “Bác ơi!” - những bài thơ chính trị trữ tình xuất sắc tiêu biểu của Tố Hữu lại chọn bài “Khi con tu hú” bình thường của ông? Tại sao không có “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, “Lửa đèn” của Phạm Tiến Duật, “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn, “Thời hoa đỏ” của Thanh Tùng, “Nấm mộ và cây trầm” của Nguyễn Đức Mậu? Tại sao Trần Đăng Khoa có “Gửi bác Trần Nhuận Minh”, một bài thơ không hay lắm lại mất hút “Mẹ ốm” hay :Hạt gạo làng ta”? Buồn cười nhất là bài ca dao mới “Bông và mây” của Ngô Văn Phú cũng được cho là bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX...

Chưa nói đến  sự sai sót trong in ấn, chỉ ngần ấy ví dụ ta cũng đã có thể khẳng định rằng đây chưa phải là 100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX. Muốn chọn được 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX cần phải có một công trình khác do một hội đồng chuyên môn cấp quốc gia đủ “tâm” và “tầm” tuyển lựa nghiêm túc chứ không thể thông qua một “cuộc chơi” lào phào được. Và, theo tôi thì không nên lấy ấn phẩm này giúp Nhà xuất bản Giáo Dục làm sách đưa vào giảng dạy trong nhà trường như ý kiến của nhà văn Lê Lựu, giám đốc Trung tâm Văn hoá doanh nhân.
                                          N.H.Q

(nguồn: TCSH số 218 - 04 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.