Theo nhạc sỹ-nhà nghiên cứu âm nhạc Đặng Hoành Loan, sau 5 năm được Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào “Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại,” từ việc thiếu vắng đội ngũ kế thừa, ca trù đã hình thành được một đội ngũ nghệ sỹ kế cận khá đông đảo. Đây là một trong cơ sở quan trọng để loại hình nghệ thuật này trở thành “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.”
Biểu diễn ca trù (Ảnh: TTXVN)
Trước thềm Liên hoan ca trù toàn quốc 2014, phóng viên Vietnam+ đã có cuộc trao đổi với nhạc sỹ Đặng Hoành Loan-tổng đạo diễn, cố vấn chuyên môn của liên hoan xung quanh vấn đề này.
- Thưa nhạc sỹ, có ý kiến cho rằng Liên hoan ca trù toàn quốc 2014 vắng bóng những nghệ nhân lão thành, thay vào đó chỉ có sự xuất hiện của các nghệ sỹ trẻ sẽ tạo ra sự mất cân đối. Với tư cách là tổng đạo diễn của liên hoan, ông giải thích về vấn đề này như thế nào?
Nhạc sỹ Đặng Hoành Loan: Đây là năm thứ 5 từ khi ca trù được UNESCO ghi danh vào “Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại.” Chúng ta cần tổng kết lại xem trong 5 năm đó, việc kế tục ca trù được thực hiện thế nào?
Nếu việc truyền dạy, phát huy giá trị của di sản này này vẫn chỉ nằm ở các nghệ nhân thì tôi xin thưa đó là một tình trạng đáng báo động nghiêm trọng. Bởi lẽ, trong cả nước, chúng ta chỉ còn khoảng hai, ba nghệ nhân ca trù và các cụ đều đã ở ngưỡng tuổi 90.
Bởi vậy, nếu năm nay, chúng ta lại tổ chức liên hoan theo kiểu vinh danh các nghệ nhân lão thành thì chúng ta không đánh giá được chính xác sự tồn tại, phát triển của ca trù trong đời sống. Vì thế, chương trình năm nay tập trung vào việc giới thiệu các nghệ nhân kế cận - tức là lớp trẻ ham thích ca trù.
Tôi tiếc rằng, việc tổ chức lần này chỉ diễn ra trong ba ngày, thời lượng biểu diễn với mỗi đơn vị, câu lạc bộ tham gia khá hạn chế [mỗi câu lạc bộ tham gia liên hoan sẽ tự xây dựng chương trình biểu diễn với thời lượng tối đa là 30 phút-PV]. Nhiều địa phương gọi điện tới ban tổ chức nói rằng, họ muốn được diễn trong một tiếng hay thậm chí, có đơn vị còn đề nghị được có riêng một buổi để diễn. Đây là một tín hiệu rất đáng mừng, chứng tỏ đội ngũ nghệ sỹ trẻ kế cận hiện nay khá dồi dào.
- Để đảm bảo chất lượng các tiết mục tham gia liên hoan, ban tổ chức đã có phương án nào, thưa ông?
Nhạc sỹ Đặng Hoành Loan: Chúng tôi đề nghị các câu lạc bộ, đơn vị tham gia liên hoan lần này gửi các băng đĩa thu âm tiết mục thể hiện về cho ban tổ chức thẩm định trước.
Sau khi nghe xong, tôi thấy bên cạnh một số câu lạc bộ thu âm tốt, có một câu lạc bộ thu thanh chưa đạt. Thế nhưng qua đó tôi rút ra được hai điều: Thứ nhất, thế hệ nghệ sỹ trẻ ra đời và hát hay (ví dụ, nhiều giọng hát của Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương… rất tốt). Điều này làm cho chúng ta tin tưởng về sự kế thừa và phát huy giá trị của di sản văn hóa này trong đời sống.
Mặt khác, chúng ta cũng đặt lại câu hỏi: Làm sao để cộng đồng tự “nuôi dưỡng” được như vậy trong khi chúng ta chưa có một chế độ đãi ngộ nào thỏa đáng đối với các nghệ nhân, nghệ sỹ ca trù và chưa có kế hoạch nào mang tính chất dài hạn trong việc phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này trong đời sống?
Câu trả lời chỉ có thể là quần chúng coi đó là sứ mệnh của mình. Họ tự bỏ tiền để theo học, nuôi dưỡng nó.
Hằng năm, Viện Âm nhạc mới tổ chức được những lớp học ca trù kéo dào trong khoảng 15 ngày. Những người tham gia các lớp học này là những người vốn đã có những hiểu biết cơ bản về ca trù. Sau đó, họ trở thành hạt nhân chủ chốt trong việc truyền dạy ca trù ở các địa phương.
Trong khi đó, với một ca nương, để có thể biểu diễn được ca trù thì phải có thời gian học từ 5 năm trở lên. Bởi thế, nếu chúng ta tổ chức được nhiều hơn nữa các lớp giáo sinh truyền dạy như vậy, chúng ta sẽ có lực lượng kế cận hùng hậu. Xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ kế cận đó là cách tốt nhất để gìn giữ và phát huy giá trị di sản này.
- Nhìn lại 5 năm từ khi ca trù được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, ông có nhận xét gì về sự phát triển của ca trù trong đời sống cộng đồng?
Nhạc sỹ Đặng Hoành Loan: Ca trù đã, đang và sẽ tiếp tục trở lại với đời sống cộng đồng.
Từ khoảng năm 2005 đổ về trước, chữ ca trù xa lạ lắm, xa lạ ngay với cả chính những vùng có di sản ca trù. Tôi đi điền dã khoảng 70 xã ở 15 tỉnh, thành phố, hỏi về ca trù thì đến cán bộ xã cũng hỏi ngược lại tôi “ca trù là cái gì?”
Thế nhưng, đến nay, cộng đồng đều nhận thức được rằng, ca trù được thế giới công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong đời sống cộng đồng, cái tên ca trù đã trở nên rất phổ biến với cả lớp trẻ và người già. Đó là bước chuyển thứ nhất vô cùng quan trọng.
Bước chuyển thứ hai là về mặt số lượng. Nếu như khi được UNESCO vinh danh, chúng ta chỉ có 20 nghệ nhân trong toàn quốc và không có người biết hát ca trù (ngoài 20 nghệ nhân này) thì đến nay, 18 nghệ nhân đã ra đi. Thế nhưng chúng ta có một đội ngũ những người biết hát ca trù, lớp nghệ sỹ kế cận (khoảng vài ba trăm người) cũng không hề kém cạnh. Tuy nhiên, nếu so với các nghệ nhân - những “báu vật nhân văn sống” thì họ còn cần phải có thêm nhiều thời gian rèn luyện.
Về mặt nghệ thuật, ở giai đoạn năm 2005-2008, chúng ta chỉ có hai tay đàn và ca trù đứng trước nguy cơ không còn người đàn; mà không còn người đàn thì ca trù coi như biến mất. Không thể gọi là ca trù nếu thiếu tiếng đàn.
Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta đã có tám tay đàn-mà là tám tay đàn có chuyên môn, kỹ thuật cao, điệu nghệ chứ không phải là những tay đàn “lộp bộp,” làng nhàng.
Kết quả tiếp theo là, lúc đầu, lớp trẻ chỉ biết hát ba điệu (hát nói, hát xẩm, hát ru). Đến bây giờ, họ đã hát được thêm tám điệu nữa, nâng tổng số lên 11 điệu trong khi ca trù có tổng cộng khoảng 40 thể cách. Theo tôi, đó là bước tiến khả quan.
- Theo ông, đến khi nào ca trù vượt ra khỏi được tình trạng “cần bảo vệ khẩn cấp?”
Nhạc sỹ Đặng Hoành Loan: So với khoảng thời gian năm 2008, hiện nay, ca trù đã đủ điều kiện để được chuyển khỏi danh sách “cần bảo vệ khẩn cấp.”
Tôi cho rằng, lớp nghệ sỹ kế cận và cộng đồng đã đủ sức và lòng nhiệt tình để bảo tồn và phát huy giá trị của ca trù trong đời sống. Vấn đề là chúng ta còn cần cơ chế chính sách của cơ quan văn hóa để các hoạt động ca trù được diễn ra thường xuyên, bài bản hơn.
Nói vậy không có nghĩa là ca trù cần được trình diễn liên tục hằng ngày. Chúng ta đừng mong ca trù sẽ phổ biến được như nhạc trẻ. Điều đó là không thể. Chúng ta hãy nghĩ nó như nhạc thính phòng, giao hưởng - thỉnh thoảng có chương trình biểu diễn thôi.
Tôi tin rằng, nếu năm nay chúng ta làm hồ sơ gửi lên UNESCO, ca trù sẽ được chuyển từ danh sách “Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp của nhân loại” sang danh sách “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.”
- Trân trọng cảm ơn ông./.
Liên hoan ca trù toàn quốc 2014 sẽ diễn ra từ ngày 26-29/8 tại Viện Âm nhạc (CC2-Khu đô thị mới Mỹ Đình, Hà Nội). Chương trình có sự tham dự của 26 đơn vị, câu lạc bộ ca trù của 12 tỉnh, thành phố có loại hình nghệ thuật này trong cả nước, gồm Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Quảng Bình, Phú Thọ, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc và Thành phố Hồ Chí Minh. |
Nguồn:
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.