Cá tính học thuật Đoàn Văn Chúc

08:36 22/11/2016

Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

Đoàn Văn Chúc qua kí họa của Bùi Xuân Phái (22/11/1975). Theo nhà thơ Lê Đạt, chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân

Người thầy và nhà nghiên cứu

Sinh năm 1926, Đoàn Văn Chúc vẫn kịp trưởng thành trong môi trường giáo dục Pháp – Việt trước khi nó dần lụi tàn sau năm 1945. Vốn tri thức Tây học và nhất là tiếng Pháp vững chắc sẽ thúc đẩy Đoàn Văn Chúc dám phiêu lưu trong sự lựa chọn nguồn hiểu biết cho mình. Nhưng cũng phải mất hơn 20 năm tham gia kháng chiến rồi công tác văn hóa quần chúng, ông mới có điều kiện bắt tay vào công việc nghiên cứu.

Trong khoảng thập niên 1970, vượt qua những rào cản và sự tự khép kín của xã hội, Đoàn Văn Chúc đã tiếp cận, đọc sâu nhiều trước tác của J. Frazer (1854-1941), S. Freud (1856-1939), E. Cassirer (1874-1945), G. Bouthoul (1896-1980), M. Eliade (1907-1986), và đặc biệt là C.Lévi-Strauss (1908-2009)1,… - những bộ khung chỉ dẫn gần như khác hẳn căn nền Marxist. Vì thế các bài soạn giảng của ông - từ năm 1978-1990, ông giảng dạy văn hóa học, xã hội học văn hóa tại Trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa, sau là Đại học Văn hóa Hà Nội - có kênh tham chiếu ở nhiều lĩnh vực khác nhau (phân tâm học, triết học, tôn giáo, nhân học…). Bên cạnh đó, ông lần lượt chọn dịch một số công trình mà chỉ số ít giới chuyên môn thực sự mới vỡ lẽ. Bản tính khiêm cung và cẩn trọng hẳn đã làm ông “chậm phẩm”, đến muộn trong những công bố. Nhưng điều đó không xóa mờ tầm ảnh hưởng học thuật của ông trong văn hóa học, xã hội học văn hóa.

Việc nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam có nhiều kiểu dạng. Trước hết và sớm hơn cả là điểm danh, mô tả các đặc sắc, biểu hiện của phong tục tập quán (như Phan Kế Bính mở đầu một cách điển phạm với Việt Nam phong tục, 1916, để về sau có thêm những Nhất Thanh, Toan Ánh nối dài không mấy xuất sắc hơn). Hướng thứ hai là kết hợp khảo cứu và cấu trúc hóa các thành tố văn hóa, diễn giải chúng theo chiều lịch đại mà Việt Nam văn hóa sử cương, 1938, của Đào Duy Anh là mẫu mực. Có thể nhắc đến Văn minh Việt Nam (1944) của Nguyễn Văn Huyên cũng là một trường hợp tiêu biểu của ý thức tái dựng cấu trúc văn hóa-văn minh Việt Nam. Cần nói thêm rằng, cả Phan Kế Bính, Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên, vào thời điểm Đông Tây tiếp xúc đang lệch về phía quyền lực cái mới, đều mang tinh thần duy tân, nên cảm nhận và sự phân tích của họ đều lộ rõ ý hướng phê phán những hủ tục lạc hậu, những khuyết điểm cố hữu của văn hóa truyền thống. Bẵng đi một thời gian chúng ta chỉ có đường lối, có khi là khoa học đường lối văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa thì đến thập niên 1980, nghiên cứu văn hóa mới trở lại một cách dồn dập. Lần này, số đông chọn nghiên cứu bản sắc văn hóa và dù theo hướng diễn trình lịch sử, hay hệ thống - cấu trúc, so sánh - loại hình thì về cơ bản, vẫn tập trung đề cao những phẩm tính riêng, đặc trưng không lẫn của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng, kiến tạo quốc gia. Tính chất tái qui tâm truyền thống và tinh thần dân tộc chủ nghĩa thể hiện khá rõ trong loạt nghiên cứu của Trần Văn Giàu (Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, 1980), Hà Văn Tấn (Về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam, 1987), Phan Ngọc (Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, 1994; Bản sắc văn hóa Việt Nam, 1998), Hoàng Ngọc Hiến (Sức mạnh văn hóa và sự phát triển của văn minh – trường hợp Việt Nam, 1994), Trần Ngọc Thêm (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, 1996)… Khi bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam được đưa vào nhà trường, thay vì làm đa dạng hóa các cách tiếp cận, phân tích văn hóa, thì nó càng vít chặt người đọc/học vào lối ghi nhớ diễn trình/tiến trình (theo thời/triều đại) và kết cấu thành tố (tự nhiên và xã hội, vật chất và tinh thần) không tránh khỏi cứng nhắc. Ngay cả một công trình rất dày dặn, chặt chẽ và khúc chiết gần đây là Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn (2011) của Nguyễn Thừa Hỷ thì thao tác phân loại, liệt kê vẫn nổi bật.

Có thể thấy Đoàn Văn Chúc có tương đồng nhưng cũng khác biệt so với diện mạo chung của những nghiên cứu trên. Trước tiên, ông vẫn đi theo lối phân loại các thành tố của văn hóa: lễ-tết-hội; giá thú; tang; trò chơi; thời kiểu… Nhưng ngay khi điểm mặt mỗi thành tố, ông có xu hướng lọc ra những ý nghĩa, cấu trúc và chức năng phổ quát của chúng. Vì thế, ông chỉ lấy Việt Nam làm mẫu cho các quan sát rộng hơn theo hướng liên ngành. Chẳng hạn, về lễ-tết-hội, trò chơi: Nếu Phan Kế Bính, Nhất Thanh hay Toan Ánh chủ yếu liệt kê, giới thiệu, nghĩa là chỉ dừng mức cung cấp thông tin (thời gian, địa điểm, cách thức), thì Đoàn Văn Chúc đi đến phân tích (tại sao và như thế nào) sự phát sinh, lẽ tồn tại và các giá trị của chúng. Khi đó, ông sẽ vận dụng lí thuyết về nghi thức, chức năng, biểu tượng, cấu trúc, tâm lí…, để diễn giải, đánh giá. Sẽ lí thú và cảm thấy có “hóc hiểm” khoa học hơn khi ông tham chiếu lễ hội theo góc nhìn của S. Freud, rằng “dù hơn thường hay khác thường, sự sống của mỗi thành viên trong khoảnh khắc ấy cũng tràn vượt khuôn khổ sống hàng ngày”, “một thứ vô trật hay thái quá được tổ chức và được phép”2; khi ông phát hiện trong các kiểu loại trò chơi (thể lực, tính toán, thị lực) “những được phép” và “những cấm kỵ” mà người chơi phải nắm bắt3; khi ông mổ xẻ nhiều khái niệm thoạt tiên tưởng là một nhưng nội hàm khác xa nhau: ứng xử và xử sự, tác phong và nếp sống, phong tục và phong hóa4. Chính vì đuổi theo lí thuyết, thậm chí chủ ý nâng vấn đề thành lí thuyết nên Đoàn Văn Chúc không có thiên hướng ngợi ca sự đặc sắc, phong phú của văn hóa/phong tục Việt. Ông tỏ ra trầm tĩnh để nhìn thấy, đặt cạnh cái riêng biệt trong phổ quát, chất địa phương trong tính toàn cầu. Ở vài điểm chính yếu, cách ông triển khai các chủ đề trong văn hóa học, xã hội học văn hóa có hơi hướng nhân học văn hóa (cultural anthropology) là khoa học/lí thuyết  liên ngành rộng bậc nhất.

Dấu ấn thuật ngữ

Hiểu sâu những vấn đề quen thuộc hoặc khơi gợi một vài vấn đề mới mẻ cũng là một năng lực, tính cách khoa học khá riêng của Đoàn Văn Chúc. Hiểu sâu không chỉ vì có kiến thức rộng mà còn vì tâm thế “cứng đầu” không chịu theo lối mòn. Không ít lần, ông phải dụng đến chiết tự (Hán), chua ngoại ngữ (Pháp) và cộng với sự “nghiệm sinh” của mình để cắt nghĩa một khái niệm thật ưng ý. Đơn cử, liên quan đến văn chương dân gian, một loại hình văn hóa dân gian, ông dùng “diễn từ dân gian” (chua là “discours populaires”) để chỉ ngạn ngữ (tục ngữ), câu đốdiễn ngữ là những thể loại được các nhà folklore yên tâm với cách sắp đặt của mình. Từ chỗ đọc sâu, tất yếu Đoàn Văn Chúc sẽ có lợi thế bàn sớm, bàn kĩ nhiều vấn đề trong chủ ý cập nhật, thu thập thông tin vừa của sách vở vừa của đời sống đương thời. Ông đã dành nhiều trang viết để giới thuyết biểu tượng, nhân học văn hóa, phân tích thời kiểu, trường văn hóa, thời gian rỗi và hoạt động rỗi, mà hôm nay chúng ta bắt đầu thấy độ khả dụng của chúng trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà sách của ông, viết lẫn dịch, là nguồn cung khá nhiều thuật ngữ cho học giới. Nhưng có lẽ, ngay cả độc giả chuyên môn cũng cảm thấy “lạ lẫm” (hoặc ấn tượng lâu dài) với nhiều từ/thuật ngữ mang phong cách diễn đạt của Đoàn Văn Chúc (canh cải, thời kiểu, đồ hình, cách người, môi vật, thực thao, nghi điển, thượng tồn, dư sinh, biên bàng, trừu suất, cảnh diễn, lai pha…). Cá nhân tôi thì trộm nghĩ, ngoài chuyện ông trọng chữ đến mức kỳ công lựa chọn, thì rất có thể, ông và những trí thức cùng thời (Trần Dần, Lê Đạt, Huyền Giang…) không muốn giản đơn hóa suy tư, không muốn dự vào chuẩn ngôn ngữ, phát ngôn của thế thời đơn giọng. Cách tốt nhất để giữ khoảng cách với văn hóa quần chúng quen dùng chung khẩu vị lời lẽ nôm na là hãy cứ tạo những văn bản lấy trí tuệ thông thái làm điều kiện thưởng thức.

Cũng xin nói thêm một điểm đáng chú ý trong “cách người” Đoàn Văn Chúc: ông là bạn tri âm kiểu “một lứa bên trời” với những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Dương Tường, Đỗ Lai Thúy… Bản thân ông cũng làm thơ với một phong cách rất độc đáo. Nhà thơ Lê Đạt trong điếu văn “Vĩnh biệt Chúc bờ sông” tháng 10/1996 cho biết chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” nổi tiếng mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân. Từ hình ảnh “Chúc bờ sông”, tôi hình dung được tâm thế kẻ sĩ biết giữ đạo nhà, biết lảng tránh những mời gọi chưa hẳn đã tốt lành của danh vị và danh tiếng, biết lắng nghe những tiếng nói sách vở đôi khi mới lạ và khác biệt mà nhiều người chưa thể nhận ra. Có lẽ không sợ sai khi nhận xét ông là người không nhập vào đám đông mà vẫn hoàn toàn đủ vị thế trở thành tâm điểm quy chiếu.

Đoàn Văn Chúc để lại nhiều công trình nghiên cứu, dịch phẩm quan trọng. Trong đó, về nghiên cứu, đã xuất bản: Những bài giảng về văn hóa (1994), Văn hóa học (1997), Xã hội học văn hóa (1997); về dịch thuật : Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (Trần Đức Thảo, 1996), Vật tổ và cấm kỵ (S. Freud, 1998), Những tiếng nói đã mất (J. Duvignaud, 2011), Những cấu trúc xã hội học (G. Bouthoul, 2011), Những mảnh ghép văn hóa (Nhiều tác giả, 2016). Hiện còn Triết học các hình thái biểu tượng (của E. Cassirer) và Bàn về lịch sử tôn giáo (của M. Eliade, dịch cùng Đỗ Lai Thúy) chưa in.

***
1Tiếp nhận C. Lévi-Strauss vào thập niên 1960 - 1970 tại miền Bắc không chỉ mới mẻ mà còn bị coi là cấm kỵ. Nhà dân tộc học Từ Chi là người sớm chịu ảnh hưởng khá rõ chủ nghĩa cấu trúc của C.Lévi-Strauss (điển hình trong công trình Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ, 1984). Nhưng theo Đỗ Lai Thúy, Từ Chi từng bị phê phán là “tuyên truyền học thuật tư sản” vì đã tự nguyện đứng ra thuyết trình ba buổi về C. Lévi –Strauss. (Xem thêm Đỗ Lai Thúy [2006], Chân trời có người bay, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.251)

2Đoàn Văn Chúc (1997a), Văn hóa học, Viện văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr. 136

3Đoàn Văn Chúc (1997a), Sđd, tr.249

4Xem thêm Đoàn Văn Chúc (1997b), Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.123-131.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.

  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.