Cá tính học thuật Đoàn Văn Chúc

08:36 22/11/2016

Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.

Đoàn Văn Chúc qua kí họa của Bùi Xuân Phái (22/11/1975). Theo nhà thơ Lê Đạt, chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân

Người thầy và nhà nghiên cứu

Sinh năm 1926, Đoàn Văn Chúc vẫn kịp trưởng thành trong môi trường giáo dục Pháp – Việt trước khi nó dần lụi tàn sau năm 1945. Vốn tri thức Tây học và nhất là tiếng Pháp vững chắc sẽ thúc đẩy Đoàn Văn Chúc dám phiêu lưu trong sự lựa chọn nguồn hiểu biết cho mình. Nhưng cũng phải mất hơn 20 năm tham gia kháng chiến rồi công tác văn hóa quần chúng, ông mới có điều kiện bắt tay vào công việc nghiên cứu.

Trong khoảng thập niên 1970, vượt qua những rào cản và sự tự khép kín của xã hội, Đoàn Văn Chúc đã tiếp cận, đọc sâu nhiều trước tác của J. Frazer (1854-1941), S. Freud (1856-1939), E. Cassirer (1874-1945), G. Bouthoul (1896-1980), M. Eliade (1907-1986), và đặc biệt là C.Lévi-Strauss (1908-2009)1,… - những bộ khung chỉ dẫn gần như khác hẳn căn nền Marxist. Vì thế các bài soạn giảng của ông - từ năm 1978-1990, ông giảng dạy văn hóa học, xã hội học văn hóa tại Trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa, sau là Đại học Văn hóa Hà Nội - có kênh tham chiếu ở nhiều lĩnh vực khác nhau (phân tâm học, triết học, tôn giáo, nhân học…). Bên cạnh đó, ông lần lượt chọn dịch một số công trình mà chỉ số ít giới chuyên môn thực sự mới vỡ lẽ. Bản tính khiêm cung và cẩn trọng hẳn đã làm ông “chậm phẩm”, đến muộn trong những công bố. Nhưng điều đó không xóa mờ tầm ảnh hưởng học thuật của ông trong văn hóa học, xã hội học văn hóa.

Việc nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam có nhiều kiểu dạng. Trước hết và sớm hơn cả là điểm danh, mô tả các đặc sắc, biểu hiện của phong tục tập quán (như Phan Kế Bính mở đầu một cách điển phạm với Việt Nam phong tục, 1916, để về sau có thêm những Nhất Thanh, Toan Ánh nối dài không mấy xuất sắc hơn). Hướng thứ hai là kết hợp khảo cứu và cấu trúc hóa các thành tố văn hóa, diễn giải chúng theo chiều lịch đại mà Việt Nam văn hóa sử cương, 1938, của Đào Duy Anh là mẫu mực. Có thể nhắc đến Văn minh Việt Nam (1944) của Nguyễn Văn Huyên cũng là một trường hợp tiêu biểu của ý thức tái dựng cấu trúc văn hóa-văn minh Việt Nam. Cần nói thêm rằng, cả Phan Kế Bính, Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên, vào thời điểm Đông Tây tiếp xúc đang lệch về phía quyền lực cái mới, đều mang tinh thần duy tân, nên cảm nhận và sự phân tích của họ đều lộ rõ ý hướng phê phán những hủ tục lạc hậu, những khuyết điểm cố hữu của văn hóa truyền thống. Bẵng đi một thời gian chúng ta chỉ có đường lối, có khi là khoa học đường lối văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa thì đến thập niên 1980, nghiên cứu văn hóa mới trở lại một cách dồn dập. Lần này, số đông chọn nghiên cứu bản sắc văn hóa và dù theo hướng diễn trình lịch sử, hay hệ thống - cấu trúc, so sánh - loại hình thì về cơ bản, vẫn tập trung đề cao những phẩm tính riêng, đặc trưng không lẫn của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng, kiến tạo quốc gia. Tính chất tái qui tâm truyền thống và tinh thần dân tộc chủ nghĩa thể hiện khá rõ trong loạt nghiên cứu của Trần Văn Giàu (Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, 1980), Hà Văn Tấn (Về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam, 1987), Phan Ngọc (Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, 1994; Bản sắc văn hóa Việt Nam, 1998), Hoàng Ngọc Hiến (Sức mạnh văn hóa và sự phát triển của văn minh – trường hợp Việt Nam, 1994), Trần Ngọc Thêm (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, 1996)… Khi bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam được đưa vào nhà trường, thay vì làm đa dạng hóa các cách tiếp cận, phân tích văn hóa, thì nó càng vít chặt người đọc/học vào lối ghi nhớ diễn trình/tiến trình (theo thời/triều đại) và kết cấu thành tố (tự nhiên và xã hội, vật chất và tinh thần) không tránh khỏi cứng nhắc. Ngay cả một công trình rất dày dặn, chặt chẽ và khúc chiết gần đây là Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn (2011) của Nguyễn Thừa Hỷ thì thao tác phân loại, liệt kê vẫn nổi bật.

Có thể thấy Đoàn Văn Chúc có tương đồng nhưng cũng khác biệt so với diện mạo chung của những nghiên cứu trên. Trước tiên, ông vẫn đi theo lối phân loại các thành tố của văn hóa: lễ-tết-hội; giá thú; tang; trò chơi; thời kiểu… Nhưng ngay khi điểm mặt mỗi thành tố, ông có xu hướng lọc ra những ý nghĩa, cấu trúc và chức năng phổ quát của chúng. Vì thế, ông chỉ lấy Việt Nam làm mẫu cho các quan sát rộng hơn theo hướng liên ngành. Chẳng hạn, về lễ-tết-hội, trò chơi: Nếu Phan Kế Bính, Nhất Thanh hay Toan Ánh chủ yếu liệt kê, giới thiệu, nghĩa là chỉ dừng mức cung cấp thông tin (thời gian, địa điểm, cách thức), thì Đoàn Văn Chúc đi đến phân tích (tại sao và như thế nào) sự phát sinh, lẽ tồn tại và các giá trị của chúng. Khi đó, ông sẽ vận dụng lí thuyết về nghi thức, chức năng, biểu tượng, cấu trúc, tâm lí…, để diễn giải, đánh giá. Sẽ lí thú và cảm thấy có “hóc hiểm” khoa học hơn khi ông tham chiếu lễ hội theo góc nhìn của S. Freud, rằng “dù hơn thường hay khác thường, sự sống của mỗi thành viên trong khoảnh khắc ấy cũng tràn vượt khuôn khổ sống hàng ngày”, “một thứ vô trật hay thái quá được tổ chức và được phép”2; khi ông phát hiện trong các kiểu loại trò chơi (thể lực, tính toán, thị lực) “những được phép” và “những cấm kỵ” mà người chơi phải nắm bắt3; khi ông mổ xẻ nhiều khái niệm thoạt tiên tưởng là một nhưng nội hàm khác xa nhau: ứng xử và xử sự, tác phong và nếp sống, phong tục và phong hóa4. Chính vì đuổi theo lí thuyết, thậm chí chủ ý nâng vấn đề thành lí thuyết nên Đoàn Văn Chúc không có thiên hướng ngợi ca sự đặc sắc, phong phú của văn hóa/phong tục Việt. Ông tỏ ra trầm tĩnh để nhìn thấy, đặt cạnh cái riêng biệt trong phổ quát, chất địa phương trong tính toàn cầu. Ở vài điểm chính yếu, cách ông triển khai các chủ đề trong văn hóa học, xã hội học văn hóa có hơi hướng nhân học văn hóa (cultural anthropology) là khoa học/lí thuyết  liên ngành rộng bậc nhất.

Dấu ấn thuật ngữ

Hiểu sâu những vấn đề quen thuộc hoặc khơi gợi một vài vấn đề mới mẻ cũng là một năng lực, tính cách khoa học khá riêng của Đoàn Văn Chúc. Hiểu sâu không chỉ vì có kiến thức rộng mà còn vì tâm thế “cứng đầu” không chịu theo lối mòn. Không ít lần, ông phải dụng đến chiết tự (Hán), chua ngoại ngữ (Pháp) và cộng với sự “nghiệm sinh” của mình để cắt nghĩa một khái niệm thật ưng ý. Đơn cử, liên quan đến văn chương dân gian, một loại hình văn hóa dân gian, ông dùng “diễn từ dân gian” (chua là “discours populaires”) để chỉ ngạn ngữ (tục ngữ), câu đốdiễn ngữ là những thể loại được các nhà folklore yên tâm với cách sắp đặt của mình. Từ chỗ đọc sâu, tất yếu Đoàn Văn Chúc sẽ có lợi thế bàn sớm, bàn kĩ nhiều vấn đề trong chủ ý cập nhật, thu thập thông tin vừa của sách vở vừa của đời sống đương thời. Ông đã dành nhiều trang viết để giới thuyết biểu tượng, nhân học văn hóa, phân tích thời kiểu, trường văn hóa, thời gian rỗi và hoạt động rỗi, mà hôm nay chúng ta bắt đầu thấy độ khả dụng của chúng trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà sách của ông, viết lẫn dịch, là nguồn cung khá nhiều thuật ngữ cho học giới. Nhưng có lẽ, ngay cả độc giả chuyên môn cũng cảm thấy “lạ lẫm” (hoặc ấn tượng lâu dài) với nhiều từ/thuật ngữ mang phong cách diễn đạt của Đoàn Văn Chúc (canh cải, thời kiểu, đồ hình, cách người, môi vật, thực thao, nghi điển, thượng tồn, dư sinh, biên bàng, trừu suất, cảnh diễn, lai pha…). Cá nhân tôi thì trộm nghĩ, ngoài chuyện ông trọng chữ đến mức kỳ công lựa chọn, thì rất có thể, ông và những trí thức cùng thời (Trần Dần, Lê Đạt, Huyền Giang…) không muốn giản đơn hóa suy tư, không muốn dự vào chuẩn ngôn ngữ, phát ngôn của thế thời đơn giọng. Cách tốt nhất để giữ khoảng cách với văn hóa quần chúng quen dùng chung khẩu vị lời lẽ nôm na là hãy cứ tạo những văn bản lấy trí tuệ thông thái làm điều kiện thưởng thức.

Cũng xin nói thêm một điểm đáng chú ý trong “cách người” Đoàn Văn Chúc: ông là bạn tri âm kiểu “một lứa bên trời” với những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Dương Tường, Đỗ Lai Thúy… Bản thân ông cũng làm thơ với một phong cách rất độc đáo. Nhà thơ Lê Đạt trong điếu văn “Vĩnh biệt Chúc bờ sông” tháng 10/1996 cho biết chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” nổi tiếng mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân. Từ hình ảnh “Chúc bờ sông”, tôi hình dung được tâm thế kẻ sĩ biết giữ đạo nhà, biết lảng tránh những mời gọi chưa hẳn đã tốt lành của danh vị và danh tiếng, biết lắng nghe những tiếng nói sách vở đôi khi mới lạ và khác biệt mà nhiều người chưa thể nhận ra. Có lẽ không sợ sai khi nhận xét ông là người không nhập vào đám đông mà vẫn hoàn toàn đủ vị thế trở thành tâm điểm quy chiếu.

Đoàn Văn Chúc để lại nhiều công trình nghiên cứu, dịch phẩm quan trọng. Trong đó, về nghiên cứu, đã xuất bản: Những bài giảng về văn hóa (1994), Văn hóa học (1997), Xã hội học văn hóa (1997); về dịch thuật : Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (Trần Đức Thảo, 1996), Vật tổ và cấm kỵ (S. Freud, 1998), Những tiếng nói đã mất (J. Duvignaud, 2011), Những cấu trúc xã hội học (G. Bouthoul, 2011), Những mảnh ghép văn hóa (Nhiều tác giả, 2016). Hiện còn Triết học các hình thái biểu tượng (của E. Cassirer) và Bàn về lịch sử tôn giáo (của M. Eliade, dịch cùng Đỗ Lai Thúy) chưa in.

***
1Tiếp nhận C. Lévi-Strauss vào thập niên 1960 - 1970 tại miền Bắc không chỉ mới mẻ mà còn bị coi là cấm kỵ. Nhà dân tộc học Từ Chi là người sớm chịu ảnh hưởng khá rõ chủ nghĩa cấu trúc của C.Lévi-Strauss (điển hình trong công trình Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ, 1984). Nhưng theo Đỗ Lai Thúy, Từ Chi từng bị phê phán là “tuyên truyền học thuật tư sản” vì đã tự nguyện đứng ra thuyết trình ba buổi về C. Lévi –Strauss. (Xem thêm Đỗ Lai Thúy [2006], Chân trời có người bay, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.251)

2Đoàn Văn Chúc (1997a), Văn hóa học, Viện văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr. 136

3Đoàn Văn Chúc (1997a), Sđd, tr.249

4Xem thêm Đoàn Văn Chúc (1997b), Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.123-131.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG THÁI SƠN (Về nhà thơ trẻ Xích Bích)

  • NHỤY NGUYÊN

    Đọc bài thơ, thương hốc mắt sâu thẳm của người mẹ chờ con lạc lối, bơ vơ ngay trên ngọn sóng quê nhà.

  • Kỷ niệm 100 năm ngày bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước & Ngày báo chí cách mạng Việt NamPHẠM PHÚ PHONG - HỒ DŨNGHơn ai hết, trong buổi bình minh của cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người ý thức rất đầy đủ về sức mạnh của báo chí và dư luận xã hội trong đấu tranh cách mạng. Nó không chỉ là phương tiện giao lưu tư tưởng, mở đường cho văn hóa phát triển mà còn là vũ khí, là công cụ đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc trên mặt trận tư tưởng.

  • ĐÔNG HÀHuế không phải là đất ở để thương mà chỉ là đất đi để nhớ. Nhiều thế hệ học sinh sinh viên đã đến, ở lại nơi này và rồi sau đó lại khăn gói ra đi. Nhưng đi không đành, nên thường để lại bằng những nỗi lòng trải dài theo khói sương bãng lãng của đất trời cố đô. Thành thử có một thời, Huế nên thơ trong mỗi áng văn chương của những người trẻ tuổi là vì vậy.

  • Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua, kể từ khi những văn nghệ sỹ trẻ xứ Huế cùng hội ngộ với nhau trong Câu lạc bộ Văn học Trẻ Huế những năm tám mươi thế kỷ hai mươi.

  • LTS: Nhà văn, nhà thơ Thanh Tịnh là người con của xứ Huế, ông sinh ra, trưởng thành và định hình như là một nhà văn ở đây.

  • PHẠM THƯỜNG KHANH - TRẦN XUÂN TUYẾT Trong số những di sản mà Hồ Chí Minh dành cho ngành Công an thì bức thư của Người gửi đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Công an Khu 12, ngày 11 tháng 3 năm 1948 - nói về Tư cách người Công an Cách mệnh là một di sản quý báu.

  • NGÔ MINH Nhà xuất bản Tri thức vừa ấn hành cuốn sách quý: “Đất nước Việt Nam qua Cửu Đỉnh Huế” của nhà văn Dương Phước Thu. Sách: biên khảo, lý giải rất chi tiết, rất sâu và cảm động từng chữ, từng hình ảnh khắc trên Cửu Đỉnh.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNCuốn sách non 220 trang không có phụ bản, bản đồ, tranh ảnh nào khác, giới thiệu. “Bức tranh chung về văn hoá Huế”.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNGTôi đến thăm gia đình cố nhạc sĩ Trần Hoàn trong tiết xuân lây phây mưa bụi. Bác Thanh Hồng - vợ nhạc sĩ, người con gái xứ Nghệ tạo thi hứng cho ca khúc Lời người ra đi bất tử cùng năm tháng niềm nở đón khách.

  • HỒNG NHU“Cánh chim trong bão tố” - NXB Hội Nhà văn Việt Nam - tự truyện của Nguyễn Thanh Song Cầm đến tay tôi vào một ngày mưa dầm xứ Huế ngày tháng 10 chưa cười đã tối. Một cây bút mới xuất hiện. Tôi đọc liền một mạch từ đầu cho đến cuối sách, từ lời giới thiệu cho đến phần vĩ thanh 476 trang.

  • ĐẶNG TIẾNNhật nguyệt dấu yêu là một mùa hoa trái trễ tràng, tập thơ đầu tay được tác giả gửi đến người đọc như một ủy thác, sau khi đã trải nghiệm cuộc đời, thực tế và văn học.

  • MAI VĂN HOAN(Nhân đọc “Quãng cách lặng im” của Xuân Hoàng)

  • TRẦN HIỆPTừ một nhà giáo, theo tiếng gọi “chống Mỹ , cứu nước”, Nguyễn Quang Hà lên đường ra trận, liên tục “bám trụ” chiến trường Thừa Thiên - Huế. Năm 1975 anh bị thương phải ra Bắc dưỡng bệnh và dự lớp bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam ở Quảng Bá. Sau đó anh trở lại Thừa Thiên - Huế chiến đấu và công tác cho đến bây giờ. Cũng vì thế, hầu như đa phần sáng tác của anh dù là thơ, ký hay truyện đều viết về vùng đất này.

  • HOÀNG THỊ THU THỦY1. “Ngày khai trường áo lụa gió thu bay” không chỉ có trong “Mối tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, mà niềm háo hức, tươi xanh, mong đợi có cả trong bài thơ “Mỗi ngày” của thầy giáo Hoàng Ngọc Quý.

  • TRẦN ĐÌNH SỬHoàng Ngọc Hiến là nhà giáo, nhà phê bình văn học, nhà triết luận văn hoá, nhà dịch thuật. Người ta đã biết nhiều về ông với tư cách nhà phê bình văn học mà ít biết về ông như nhà triết luận văn hoá. Về mặt này ông thể hiện một niềm trăn trở khôn nguôi đối với các vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại.

  • LTS: Tiểu thuyết Biết đâu địa ngục thiên đường đã lập “hattrick” nhận liền ba giải thưởng trong năm 2010 (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Nguyễn Du, Tặng thưởng công trình Văn học nghệ thuật xuất sắc của Hội LHVHNT TT Huế). Để giải đáp phần nào thắc mắc từ phía bạn đọc về tính chất “tự truyện” cũng như chuyện bếp núc của cuốn tiểu thuyết “gia đình” này, Sông Hương xin giới thiệu bài viết của chính tác giả cầm tinh con Mèo - nhà văn Nguyễn Khắc Phê.

  • PHẠM TẤN HẦUCó tập thơ chỉ là tập hợp những bài thơ. Nhưng Thi ca mùa ngái ngủ của Lê Huỳnh Lâm, dù là tập thơ đầu tay nhưng đã thể hiện một cái nhìn nhất quán về thế giới thi ca mình khám phá. Đó là thế giới được mở to trước những “cơn đau”, trước “nỗi kinh hoàng vây quanh trái đất”, “trong đền thờ quỷ ma” và trong ca “ngôi nhà không thần thánh”…

  • TRẦN VĂN SÁNG - NGUYỄN THỊ TỐ LOANKỷ niệm 100 năm Bác Hồ đi tìm đường cứu nước (1911 - 2011)

  • ĐỖ LAI THÚY      Thơ có tuổi và chiêm bao có tích                                  Hàn Mặc Tử