Bush và chiến tranh * - Những trang viết mẫu mực về lịch sử đương đại

14:38 23/06/2009
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

Là một nhà báo của Washington Post, từng là một trong những người “đưa” Richard Nixon ra khỏi nhà trắng bằng cách phanh phui thật dũng cảm vụ Watergate. BW là một trong rất ít những nhà báo được các chính khách Mỹ vừa nể trọng vừa e sợ. Chính vì vậy, BW đã có điều kiện để thâm nhập thật sâu và gần như đầy đủ mọi diễn biến của cội nguồn các sự kiện thông qua hàng trăm cuộc phỏng vấn; biên bản hơn 50 cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ cùng rất nhiều tài liệu đáng tin cậy khác. Tất nhiên, như chính tác giả đã nói, những gì ông viết “không phải là phiên bản hoàn toàn “sạch sẽ” –“sạch sẽ” với rất nhiều nghĩa” (lời tựa).

Cách trình bày lịch sử của BW hoàn toàn khác với phương pháp luận lịch sử cổ điển. Đó là sự kết hợp hiệu quả kỳ lạ giữa ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ lịch sử, ngôn ngữ tự sự; pha trộn nhuần nhuyễn giữa quy tắc logic và phi logic...Tôi không dám nghĩ cách viết của BW là tối ưu nhưng chắc chắn rằng đó là cuốn sách lịch sử mà ai cũng có thể đọc suốt đêm.

II) Nội dung bao trùm của cuốn sách là trình bày Học thuyết Bush từ khi hình thành, thực hiện và cả tương lai của nó. Ba giai đoạn của Học thuyết Bush- nếu có thể gọi như thế- gần như tương ứng với 3 sự kiện đã nêu ở trên. Quả thật, trong lịch sử của nhân loại rất hiếm khi có sự “trùng hợp” hoàn hảo đến như thế giữa lý thuyết và thực tiễn. Học thuyết Bush tuyên bố “quyền” (!) gây chiến tranh với bất kỳ quốc gia nào, tại bất kỳ địa điểm nào, ở bất kỳ thời điểm nào. Nguy hiểm hơn, Học thuyết Bush không giới hạn quy mô, mức độ của cuộc chiến tranh chống khủng bố toàn cầu- có nghĩa là Mỹ tự cho phép mình làm tất cả những gì cần thiết.

BW đã chỉ rõ sự kiện 11/9 chỉ là “cơ hội vàng” để Bush đưa ra một chiến lược mà ông ta biết chắc sẽ làm cho nước Mỹ bị cô lập vì những nội dung cơ bản của nó đã gần như hoàn tất vào ngày 10/9- có nghĩa là 1 ngày trước sự kiện bi thảm của nhân dân Mỹ (trang 153 - từ đây chú thích (153)). Bush không hề che giấu tham vọng “đè bẹp” mọi ý đồ đi ngược lại lợi ích Mỹ- “mọi quốc gia phải có sự lựa chọn cay nghiệt, không thể thoái thác được, hoặc ở bên phía chúng tôi,hoặc không”.(64) Để thực hiện mục đích, giống như Machiavelli, Bush bất kể phương tiện. Thậm chí khi được hỏi về việc nếu phát động chiến tranh, sẽ có rất- rất nhiều người chết, tổng thống Mỹ đã trả lời bằng một giọng thờ ơ: “Chiến tranh mà”(!)(70) Sự tàn bạo dường như là một thuộc tính ban chất của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ: khi ném bom BLU- 82 (1) nặng 7500kg, có tầm sát thương trong bán kính 550m xuống Tora Bora, người Mỹ đặt tên cho nó là Máy Cắt Hoa! (389)

III) Nội các đương quyền của chính phủ Mỹ có nhiều người gắn bó với ngành khoa học lịch sử: Cả Bush lẫn bộ trưởng quốc phòng Donald H. Rumsfeld đều có bằng cử nhân sử học; Condoleezza Rice nguyên là giáo sư môn lịch sử - chính trị ở Stanford; cố vấn chiến lược của tổng thống- Karl Rove, nguyên là giáo sư sử học...

Có thể chính vì thế mà Học thuyết Bush - cả lý thuyết và thực tiễn - đều học hỏi được rất nhiều từ những kinh nghiệm đau đớn của cuộc chiến tranh Việt Nam. Hai từ “Việt Nam” là nỗi ám ảnh thường xuyên của tổng thống Bush trong suốt thời gian diễn ra cuộc chiến tranh Afganistan. Afganistan “gợi nhớ về một kiểu bộ chiến ở châu Á (Việt Nam) mà lịch sử đã dạy rằng phải tránh nó bằng mọi giá” (377). Nghịch lý của lịch sử thật cay nghiệt: Bush hiểu rõ một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho nước Mỹ bại trận - thất bại đầu tiên và cho đến nay là duy nhất của đế quốc Hoa Kỳ - là một dân tộc tự cường không bao giờ chấp nhận một yếu tố ngoại lai! Tổng thống Mỹ luôn nhắc nhở các thuộc cấp không được ném bom vào đền thờ Hồi giáo, bệnh viện, trường học; và phải “cấu trúc” cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành thành cuộc chiến của người Afganistan chống lại ngoại bang (Al Qaeda)! (169) Cho dù quan điểm này là do giám đốc CIA, George Tenet trình bày nhưng đã được Bush khẳng định: “Đây sẽ là cái khung cho chiến lược của chúng ta. Chúng ta phải sử dụng người Afganistan trong cuộc chiến này”.(170) (2) Việc tổng thống Mỹ “quan tâm” đến trường học, bệnh viện hoàn toàn không xuất phát từ đạo đức mà bởi vì “Ném bom vào người dân có thể sẽ khiến cho Taliban mạnh hơn”. (173) Đây là Bài học Việt Nam 100%. Bush đã rất thành thật khi từng thú nhận: “Tôi là sản phẩm của thời kỳ Việt Nam“ (127) Sự dối trá của cái gọi là “lòng nhân đạo” của Bush còn được bộc lộ rất rõ qua cách đặt vấn đề: “Có thể nào trái bom đầu tiên ta thả xuống Afganistan sẽ là thực phẩm không?“ Sự tinh vi ma quái của tổng thống đã làm cho con người nổi tiếng khôn ngoan như Rumsfeld cũng phải bất ngờ. Phải một lúc sau Rumsfeld mới hiểu được Bush nói gì(172). Thực tế chỉ 2 giờ sau khi Mỹ tấn công Afganistan, 37500 suất ăn đã được ném xuống cho những người dân.

IV) Dù sao cũng phải khách quan ghi nhận Học thuyết Bush đã khá thành công trong cuộc chiến tranh Afganistan. Đúng 2 tháng sau khi trái hỏa tiễn đầu tiên rời bệ phóng, ngày 07 - 12 - 2001, dinh lũy đáng kể cuối cùng của Taliban là Kandaha thất thủ, nước Mỹ đã toàn thắng. 102 ngày sau sự kiện 11/ 9, tổng thống Karsai nhậm chức ở Cabul (22 - 12 - 2001). Đây là một cuộc chiến tranh chưa hề có tiền lệ trong lịch sử: chỉ với 110 nhân viên CIA, 316 lính đặc nhiệm, 70 triệu dollar để mua chuộc, duới sự yểm trợ tối đa từ trên không, nước Mỹ chiến thắng mà không mất một người lính nào (!) (3) Về mặt quân sự đó quả là một chiến tích phi thường của bộ máy chiến tranh Hoa Kỳ. Tất nhiên không loại trừ nguyên nhân “tự thua” của Taliban: một chính quyền vừa bị cô lập; vừa bị mất lòng dân lại vừa ngu xuẩn. Dù không hiểu lịch sử, ai cũng biết đánh thắng một nhà nước như thế không thể là việc quá khó khăn. Bài học từ Liên Xô cũng đáng kể: người Nga mất gần một thập kỷ với hàng chục ngàn quân nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận thất bại. Bush thắng vì biết cách “làm ngược lại những gì người Nga đã làm“ (152).

Các nhà phân tích lịch sử và chính trị sẽ còn nói nhiều và dài lâu về những bài học của cuộc chiến tranh Afganistan, Iraq. Tuy nhiên rất cần phải nhắc lại những cảnh báo.

Tham vọng của Học thuyết Bush là vô cùng lớn và nguy hiểm: “Chúng ta sẽ ấn định ngữ điệu cần thiết cho các đời tổng thống tương lai”(141); “Chúng ta sẽ theo đuổi việc này (Lật đổ mọi nhà nước Mỹ không thích - HVT) đến tận cùng”... (411) Bush không phải là kẻ nói suông: bất chấp sự phản đối của loài người tiến bộ trên thế giới, coi Liên Hợp Quốc có giá trị không hơn một chiếc micro; Mỹ ngang ngược và bạo tàn xóa bỏ chế độ chuyên chế của Saddam Hussein đã tồn tại suốt 30 năm chỉ trong vòng 3 tuần (!)

Phải chăng sự chiến thắng của Hoa Kỳ là không thể nào ngăn cản nổi? “Đòn phủ đầu chiến lược” (Strategy Primption) (4) mà tổng thống Bush dọa sẽ áp dụng “nếu thấy cần thiết” luôn luôn hiệu quả? Dường như điều đó vẫn đúng cho đến tháng 3- 2003, ở Iraq. Tuy nhiên nội các Bush đã quên mất rằng cả Afganistan và Iraq đều khác xa với phần lớn của phần còn lại của thế giới mà Việt Nam là một dẫn chứng điển hình.

BW đã hoàn toàn có lý khi kết thúc cuốn sách tuyệt vời của ông bằng lời thề của những người lính Mỹ (của tư tưởng cốt lõi của Học thuyết Bush - HVT) ở Afganistan: “Chúng tôi sẽ đem cái chết và bạo lực tới bốn phương trời để bảo vệ quốc gia vĩ đại của chúng tôi” (455). Đó là một lời cảnh báo nghiêm khắc và nhiều ý nghĩa.

Huế, 19 - 9 – 2003
H.V.T
(178/12-03)

------------------------

* Nguyên văn: Bush at War - của Bob Woodward do First News và Nxb Lao Động, Hà Nội phát hành tháng 9/2003 với tựa đề “Bush và quyền lực
nước Mỹ”.
 (1) Bom BLU - 82 có khả năng sát thương gần như toàn bộ mọi sinh vật: chết, thủng phổi hoặc ít nhất là thủng màng nhĩ.
(2) Những chữ in đậm và in nghiêng trong bài viết này là của chúng tôi - Hà Văn Thịnh.
(3) Cái chết của nhân viên CIA - Johny “ Mike” Spann xảy ra 3 ngày sau khi Karsai nhậm chức (25 - 12 - 2001).
(4)Đòn phủ đầu chiến lược’ so với cách hiểu “đánh đòn phủ
đầu” cũng giống như so sánh sự “giống nhau” giữa thời gian và khoảnh khắc.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...

  • THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.

  • BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.

  • THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.

  • MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.

  • HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.

  • HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự:     Ta làm con chim hót     Ta làm một cành hoa                                   Ta nhập trong hòa ca                                   Một nốt trầm xao xuyến                                          (Mùa xuân nho nhỏ)

  • Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.

  • PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).

  • HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.

  • Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.

  • LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.

  • PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.

  • NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)

  • HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

  • NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

  • NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…

  • KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.

  • HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.