Bùi Ngọc Tấn kể chuyện bạn bè

09:09 10/03/2009
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

Chẳng hạn như các cuốn Chân dung và đối thoại - Bình luận văn chương (NXB Thanh Niên, 1999), rất ăn khách độ nào, của Trần Đăng Khoa; Cây bút, đời người - Tập chân dung văn học (NXB Trẻ, 2002); giải phê bình văn học Hội Nhà văn 2003, của Vương Trí Nhàn; Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung & Phong cách (NXB Văn học 2003) của Nguyễn Đăng Mạnh hay Một thoáng nhân văn (NXB Khoa học xã hội, 2004) của Nguyên An... thảy đều là những tác phẩm phác hoạ chân dung các tay bút hiện đại còn sống hay đã khuất.

Mỗi tác giả một phong cách, không ai giống ai. Trần Đăng Khoa, trịch thượng; Vương Trí Nhàn, bay bướm. Nguyễn Đăng Mạnh, đạo mạo; Nguyên An, thử nghiệm tìm tòi... Còn Bùi Ngọc Tấn, thì cứ ngấm ngầm sôi bỏng, tựa như câu văn chữ viết của ông lúc nào cũng vọt ra từ trái tim và máu huyết.
Vậy nên có chuyện như vầy. Với Bùi Ngọc Tấn, chúng ta giờ đây không thể đọc ông như đọc bất luận tác phẩm nào của bất luận nhà văn nào, cho dầu đó là truyện ngắn, tiểu thuyết, hay hồi ký... Một là vì, sau thời gian hai mươi bảy năm trời bị im hơi lặng tiếng. Hai là, về phần chúng ta, làm sao có thể dửng dưng đứng ngoài mà nhìn, đọc ông một cách bàng quan, ngoại cuộc, xa lạ.

VIẾT VỀ BÈ BẠN...
Các bức chân dung Bùi Ngọc Tấn phác hoạ trong tập sách kể ra không nhiều so với mấy cuốn cùng loại nhắc tới trên. Đếm không quá đầu mười ngón tay. Nhưng ở đây, chiều sâu và bề dày đâu phải đo bằng những con số, mà nằm chính ở mật độ keo sơn các đương sự gắn bó với nhau. Bởi vì ở đây, toàn là chân dung các văn nghệ sĩ bè bạn của tác giả, đồng hội đồng thuyền với ông từ thuở nảo thuở nào:
"Các bạn tôi là tuổi trẻ của tôi, là một phần của cuộc đời tôi. (...) Họ là các nhà văn, nhà báo, hoạ sĩ, tức là những nghệ sĩ (..). Tôi viết về sự nhếch nhác trần ai của họ, của những người làm nghề mà các chân dung văn nghệ sĩ khác chưa nói tới hoặc chỉ nói qua”. (sđd, tr.6-7).

Những bạn bè nối khố, rất thân,rất gần, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Và, đặc biệt trong suốt thời gian 27 năm ròng ông bị loại trừ, chẳng nề tai hoạ có thể ập tới bất kỳ lúc nào, đã cứ đương nhiên chơi thân với ông, đã mến tặng ông những miếng khi đói bằng một gói khi no, về vật chất và về cả tinh thần: "Thịt ăn hết đã lâu, nhưng tình còn đó cho đến tận bây giờ". (sđd, tr.329). Keo sơn, gắn bó với nhau trong vui chơi cũng như trong hoạn nạn. Dẫu rằng, tận đáy lòng, giá như họ có lảng tránh mình đi nữa thì ông cũng không nỡ thốt nên lời oán trách. Thấu rõ rằng chính tình thế cay nghiệt mới bắt họ phải tạm thời thờ ơ, lơ là với mình, như trong trường hợp Nguyên Hồng:
"Tôi không trách Nguyên Hồng về chuyện anh không tặng tôi sách. Tôi biết anh là người yêu quý vợ chồng tôi. Tôi biết anh là người thuỷ chung đôn hậu. Tôi thương anh. Tôi thương tôi. Mỗi chúng ta đều đáng thương. Anh đã vướng nhiều chuyện lôi thôi. Anh tránh tôi, buộc phải tránh dù lòng anh không muốn. Chúng ta mấy khi được là chúng ta đâu". (sđd, tr.463)

Đến như Nguyên Hồng, một nhà văn tầm cỡ, có hạng - một con người hằng biết tự trọng, có bản lĩnh, đã dám từ bỏ mọi chức vụ, mọi quyền lợi, dắt vợ con lủi về thui thủi trong gian nhà vách đất ở ấp Cầu Đen, đồi Cháy, là bạn với núi rừng Yên Thế - một Hoàng Hoa Thám tân thời: "Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về  Nhã ". (sđd, tr.337), như ông đã rỉ vào tai Tô Hoài, trong một buổi giáp mặt nước mắt lưng tròng. Đến như Nguyên Hồng như vậy đó, mà cũng chẳng tài nào thoát khỏi hoàn cảnh buộc mình phải chà đạp tình nghĩa và giày xéo tâm hồn.
Thế mới biết tinh thần và tâm trạng con người bấy giờ bị vùi dập, nát nghếu và tả tơi tới mức nào!

CHÂN BƯỚC GẬP GHỀNH.
Mà không những vậy thôi đâu, họ còn phải đồng thời nếm đủ mọi mùi vị lưỡi tê tân khổ. Gánh chịu bao nhiêu là đói rách thể xác và đau đớn tinh thần ngày càng chồng chất đè nặng trên đầu. Gói mình trong bầu không khí ngột ngạt không ngớt bủa vậy, thiếu thốn ngặt nghèo. Vậy mà tác giả và bè bạn của ông vẫn cứ phải chân bước gập ghềnh trên đường thế đồ gót rỗ kì khu không chừa một ai này.

Bè bạn của ông, trước hết, là Nguyên Hồng (phần thứ hai, dưới nhan đề Một thời đã mất, sđd, tr. 297-499) - đã phải lánh mình chui rúc trong rừng sâu núi thẳm. Rồi tiếp theo, kể theo thứ tự xuất trình trong tập sách, là những Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân (đề mục Rừng xưa xanh lá, sđd, tr.11-28, Dương Tường (Tôi là bạn ông Dương Tường, sđd, tr.29-58). Lê Mạc Lân (Thời gian gấp ruổi, sđd, tr.59-91), Lê Bầu (Lê Bầu người hiểu giá trị của thời gian, sđd, tr.93-118), Nguyễn Thị Hoài Thanh (Một mơ ước về kiếp sau, sđd, tr.119-144), Hứa Văn Định (Quyển sách tặng Định, sđd, tr. 145-170), Nguyên Bình (Nguyên Bình với cô gái mồ côi và hòn đảo, sđd, tr. 171-200). Lê Đại Thanh (Một ông già sống cho đến khi chết, sđd, tr. 201-228). Nguyễn Thanh Bình (Cuộc phiêu lưu mầu trắng, sđd, tr.229-252) và cuối cùng là Vũ Tín (Thời trai trẻ đã qua, sđd, tr. 253-281).

Họ thảy đều "mang nghiệp chướng trong mình" (sđd, tr.7). Thảy đều đã trải qua số phận long đong, nghiệt ngã chẳng kém gì tác giả, từ bấy lâu rồi. Ông vụt "nhớ đến một câu của Pa-u-tốp-xki (...). Tôi viết cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít dần "đến bây giờ tôi mới ngấm câu này”  (sđd, tr. 91). Khiến ông "bỗng hiểu ra một điều đơn giản: Cuộc đời thật ngắn ủi và thế hệ chúng tôi đã bắt đầu sự kết thúc kiếp phù sinh của mình. Tất cả chúng tôi sắp đi qua hành tinh này mà không để lại vết xước nào". (sđd, tr. 169).
Vậy thì phải viết về họ, phải viết "về sự nhếch nhác trần ai của họ" (sđd, tr. 7), e rằng thời gian như thoi đưa, mau lẹ "gấp ruổi" (sđd, tr. 59) quá rồi, không thôi mình lại chẳng kịp hằn sâu dấu vết.

NHẾCH NHÁC TRẦN AI
* Thì họ cũng như ông, để sống còn, để nuôi vợ nuôi con, đã phải dấu mình bán chữ - bán chui, bán lén (hương hồn của những Trần Dần, của những Phùng Quán... đâu rồi). "... những người đang đi vào con đường viết lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người đang muốn có một cái truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo và giờ đây đang giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những người đã có một vài sáng tác được in đang muốn kết nạp vào hội văn nghệ địa phương, kể cả hội nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ". (sđd, tr. 82), hoặc, ban ngày ban mặt hơn, cho tỉnh uỷ nọ: "muốn có một bộ lịch sử Đảng bộ (...)mà không thể không có bản thảo, không thể không xuất bản tập lịch sử đảng bộ" (sđd, tr. 86-87). Lê Bầu. Lê Mạc Lân... đã nếm mùi tân khổ này.

* Thì họ cũng như ông, để còn sống, để nuôi vợ nuôi con, đã phải bán máu - bán những dòng máu đỏ đang thật sự chảy trong huyết quản, khi mình đà là những bộ xương bọc da, ốm nhom ốm nhách, lại còn phải dở trò gian lận, để bán được nhiều hơn bận trước. Chỉ cần "đeo thêm chì vào người để đạt trọng lượng 70 ký lô và bán được 250, 300 cc. (...) Thế là mất đi một tí máu, nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui" (sđd, tr. 79). Rất vui, chua chát thay cho cuộc sống đoạ đày. Đoạ đày thể xác, đoạ đày tinh thần loại người lao động trí óc, khi họ ngơ ngáo ngồi chờ phiên mình: "Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng. (...) Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn gàng. Mặt mũi sáng sủa, đi lại rón rén nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có học" (sđd, tr. 80-81). Dương Tường, (lại) Lê Mạc Lân... đã dấn thân sống tạm bợ như vậy một thời gian dài.

* Thì họ cũng như ông, để sống còn và, lần này, để "mơ ước về kiếp sau" (sđd, tr. 119)- đã phải trải qua cuộc đời lận đận chẳng kém gì cảnh ngộ lao lung và bị loại trừ ông từng gánh chịu. Cả cuộc đời bầm dập của Nguyễn Thị Hoài Thanh xuất phát từ "cái chuyện Nguyễn Cao Kỳ (tư lệnh không quân rồi phó thủ tướng nguỵ) là anh ruột (của) chị..." (sđd, tr.123), cộng thêm vô đó một thứ lộc trời cho: "Năm ấy, (chị) còn đang tuổi ba mươi. Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của tuổi ba mươi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa" (sđd, tr. 126). Một thân một bóng nuôi con. Mẹ con chị ở nhà tập thể có chung mỗi một ô cửa ra vào độc nhứt, nửa gian phía ngoài dành cho mẹ con chị, nửa gian trong là kho chứa dụng cụ. Rồi một hôm, người ta bỗng dưng khoá cửa... kho dụng cụ, để "bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa", vì chị đã một mực không chịu "ra đụng vào chạm" (sđd, tr.126) với ông trưởng phòng. Rồi sau đó, cũng vì đã, lần này, “cự tuyệt thẳng thừng”(sđd, tr.127) ông chủ nhiệm, mà gian buồng chị ở bỗng dưng đầy nghẹt bàn ghế như nêm cối, chật cứng hết phương ra vào được nữa... Cuộc đời Nguyễn Thị Hoài Thanh rồi cứ thế mà tiếp diễn. Đau đớn thay, phận đàn bà".

* Thì họ cũng như ông... Còn nhiều cảnh tình khác nữa, mà những Hứa Văn Định, Nguyên Bình, Lê Đại Thanh, Nguyễn Thanh Bình, Vũ Tín... đã sống qua. Mà ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn đã níu kéo thời gian làm sống trở lại dưới mắt mình.

MỘT THỜI CÒN ĐÓ
Cũng tựa như nhà văn Pháp đầu thế kỷ XX tìm lại thời gian đã mất, Bùi Ngọc Tấn tái dựng khoảng thời gian ông và các văn nghệ sĩ bè bạn của ông đã trải qua. Còn đó, trên hơn 530 trang sách, khoảng thời gian đầy giông tố, bão bùng trùm phủ lên đầu hầu hết mọi người, mà bọn nhà văn nhà báo thi sĩ hoạ sĩ là những gương mặt gánh chịu nhiều hơn hết. Họ thuộc thành phần chân yếu tay mềm, dễ bề vùi dập, dễ bề vò nát. "... chúng tôi đều viết về con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, và khao khát được viết thật hơn, không chỉ có những thuận lợi mà còn những khó khăn, không chỉ những người trung thực, mà còn những kẻ quan liêu, những tên nịnh hót". (sđd, tr. 185). Và nhứt là vì họ "có cái đầu (...)để nghĩ", độc lập, không lệ thuộc, không xu phụ- trong "tình trạng có những cái đầu chỉ nghĩ theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình". (sđd, tr. 73). Thế là dĩ nhiên họ bị "gay go" (sđd, tr. 185) cả lũ.

Hệt như chính ông trước kia, "một kẻ mới tập tọng vào nghề khi viết luôn có ở trước mặt những nhà phê bình. Họ nghiêm khắc nhìn tôi". Hệt như Nguyên Hồng bấy giờ: "Mình lăn lộn mình nghiền ngẫm, mình đọc, có khi 5 năm chục năm mới xong một quyển sách, mấy ông phê bình đọc vài đêm xong sáng tác của mình, thế là các ông ấy phán. Nào là chưa sâu, nào là thiếu tính giai cấp, hiện thực bị phản ánh một cách phiến diện". (sđd, tr. 388).

Qua ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn, mọi tình huống dầu đen tối hay cười ra nước mắt đến đâu, mọi cảnh ngộ dầu đau đớn hay tủi nhục đến đâu, thảy đều được miêu tả, trình bày một cách rất mực hiền lành, trung hậu. Câu văn cứ như phẳng lỳ, nhẵn nhụi, không lồi lõm, gồ ghề. Ngôn từ cứ như bình dị, không lời cao tiếng thấp,  không mát mẻ chua chát. Thể như sự việc thuật lại chỉ là một mớ dữ kiện ngoại tại, không dích líu tới mình. Thể như tác giả chỉ là kẻ đứng ngoài mà nhìn, hờ hững quan sát thế cuộc. Dẫu rằng mắt đẫm lệ trong miền xa cách.

Nhưng đó là lớp vỏ bọc ngoài.
Và trong trường hợp này, chúng ta chớ nên coi thường bãi nước đọng, như ngạn ngữ Pháp đã nhắc: il faut se méfier de l'eau qui dort.
Chính nhờ thứ bút pháp phẳng lì và bình dị này mà tâm tình sôi sục của Bùi Ngọc Tấn khôn thôi âm ỉ trong lòng tập sách vẫn cứ vang dội vào tai những ai chịu lắng nghe.
T.T.Đ
(196/06-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.