Bùi Ngọc Tấn kể chuyện bạn bè

09:09 10/03/2009
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.

Chẳng hạn như các cuốn Chân dung và đối thoại - Bình luận văn chương (NXB Thanh Niên, 1999), rất ăn khách độ nào, của Trần Đăng Khoa; Cây bút, đời người - Tập chân dung văn học (NXB Trẻ, 2002); giải phê bình văn học Hội Nhà văn 2003, của Vương Trí Nhàn; Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung & Phong cách (NXB Văn học 2003) của Nguyễn Đăng Mạnh hay Một thoáng nhân văn (NXB Khoa học xã hội, 2004) của Nguyên An... thảy đều là những tác phẩm phác hoạ chân dung các tay bút hiện đại còn sống hay đã khuất.

Mỗi tác giả một phong cách, không ai giống ai. Trần Đăng Khoa, trịch thượng; Vương Trí Nhàn, bay bướm. Nguyễn Đăng Mạnh, đạo mạo; Nguyên An, thử nghiệm tìm tòi... Còn Bùi Ngọc Tấn, thì cứ ngấm ngầm sôi bỏng, tựa như câu văn chữ viết của ông lúc nào cũng vọt ra từ trái tim và máu huyết.
Vậy nên có chuyện như vầy. Với Bùi Ngọc Tấn, chúng ta giờ đây không thể đọc ông như đọc bất luận tác phẩm nào của bất luận nhà văn nào, cho dầu đó là truyện ngắn, tiểu thuyết, hay hồi ký... Một là vì, sau thời gian hai mươi bảy năm trời bị im hơi lặng tiếng. Hai là, về phần chúng ta, làm sao có thể dửng dưng đứng ngoài mà nhìn, đọc ông một cách bàng quan, ngoại cuộc, xa lạ.

VIẾT VỀ BÈ BẠN...
Các bức chân dung Bùi Ngọc Tấn phác hoạ trong tập sách kể ra không nhiều so với mấy cuốn cùng loại nhắc tới trên. Đếm không quá đầu mười ngón tay. Nhưng ở đây, chiều sâu và bề dày đâu phải đo bằng những con số, mà nằm chính ở mật độ keo sơn các đương sự gắn bó với nhau. Bởi vì ở đây, toàn là chân dung các văn nghệ sĩ bè bạn của tác giả, đồng hội đồng thuyền với ông từ thuở nảo thuở nào:
"Các bạn tôi là tuổi trẻ của tôi, là một phần của cuộc đời tôi. (...) Họ là các nhà văn, nhà báo, hoạ sĩ, tức là những nghệ sĩ (..). Tôi viết về sự nhếch nhác trần ai của họ, của những người làm nghề mà các chân dung văn nghệ sĩ khác chưa nói tới hoặc chỉ nói qua”. (sđd, tr.6-7).

Những bạn bè nối khố, rất thân,rất gần, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Và, đặc biệt trong suốt thời gian 27 năm ròng ông bị loại trừ, chẳng nề tai hoạ có thể ập tới bất kỳ lúc nào, đã cứ đương nhiên chơi thân với ông, đã mến tặng ông những miếng khi đói bằng một gói khi no, về vật chất và về cả tinh thần: "Thịt ăn hết đã lâu, nhưng tình còn đó cho đến tận bây giờ". (sđd, tr.329). Keo sơn, gắn bó với nhau trong vui chơi cũng như trong hoạn nạn. Dẫu rằng, tận đáy lòng, giá như họ có lảng tránh mình đi nữa thì ông cũng không nỡ thốt nên lời oán trách. Thấu rõ rằng chính tình thế cay nghiệt mới bắt họ phải tạm thời thờ ơ, lơ là với mình, như trong trường hợp Nguyên Hồng:
"Tôi không trách Nguyên Hồng về chuyện anh không tặng tôi sách. Tôi biết anh là người yêu quý vợ chồng tôi. Tôi biết anh là người thuỷ chung đôn hậu. Tôi thương anh. Tôi thương tôi. Mỗi chúng ta đều đáng thương. Anh đã vướng nhiều chuyện lôi thôi. Anh tránh tôi, buộc phải tránh dù lòng anh không muốn. Chúng ta mấy khi được là chúng ta đâu". (sđd, tr.463)

Đến như Nguyên Hồng, một nhà văn tầm cỡ, có hạng - một con người hằng biết tự trọng, có bản lĩnh, đã dám từ bỏ mọi chức vụ, mọi quyền lợi, dắt vợ con lủi về thui thủi trong gian nhà vách đất ở ấp Cầu Đen, đồi Cháy, là bạn với núi rừng Yên Thế - một Hoàng Hoa Thám tân thời: "Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về  Nhã ". (sđd, tr.337), như ông đã rỉ vào tai Tô Hoài, trong một buổi giáp mặt nước mắt lưng tròng. Đến như Nguyên Hồng như vậy đó, mà cũng chẳng tài nào thoát khỏi hoàn cảnh buộc mình phải chà đạp tình nghĩa và giày xéo tâm hồn.
Thế mới biết tinh thần và tâm trạng con người bấy giờ bị vùi dập, nát nghếu và tả tơi tới mức nào!

CHÂN BƯỚC GẬP GHỀNH.
Mà không những vậy thôi đâu, họ còn phải đồng thời nếm đủ mọi mùi vị lưỡi tê tân khổ. Gánh chịu bao nhiêu là đói rách thể xác và đau đớn tinh thần ngày càng chồng chất đè nặng trên đầu. Gói mình trong bầu không khí ngột ngạt không ngớt bủa vậy, thiếu thốn ngặt nghèo. Vậy mà tác giả và bè bạn của ông vẫn cứ phải chân bước gập ghềnh trên đường thế đồ gót rỗ kì khu không chừa một ai này.

Bè bạn của ông, trước hết, là Nguyên Hồng (phần thứ hai, dưới nhan đề Một thời đã mất, sđd, tr. 297-499) - đã phải lánh mình chui rúc trong rừng sâu núi thẳm. Rồi tiếp theo, kể theo thứ tự xuất trình trong tập sách, là những Đình Kính, Chu Lai, Nguyễn Quang Thân (đề mục Rừng xưa xanh lá, sđd, tr.11-28, Dương Tường (Tôi là bạn ông Dương Tường, sđd, tr.29-58). Lê Mạc Lân (Thời gian gấp ruổi, sđd, tr.59-91), Lê Bầu (Lê Bầu người hiểu giá trị của thời gian, sđd, tr.93-118), Nguyễn Thị Hoài Thanh (Một mơ ước về kiếp sau, sđd, tr.119-144), Hứa Văn Định (Quyển sách tặng Định, sđd, tr. 145-170), Nguyên Bình (Nguyên Bình với cô gái mồ côi và hòn đảo, sđd, tr. 171-200). Lê Đại Thanh (Một ông già sống cho đến khi chết, sđd, tr. 201-228). Nguyễn Thanh Bình (Cuộc phiêu lưu mầu trắng, sđd, tr.229-252) và cuối cùng là Vũ Tín (Thời trai trẻ đã qua, sđd, tr. 253-281).

Họ thảy đều "mang nghiệp chướng trong mình" (sđd, tr.7). Thảy đều đã trải qua số phận long đong, nghiệt ngã chẳng kém gì tác giả, từ bấy lâu rồi. Ông vụt "nhớ đến một câu của Pa-u-tốp-xki (...). Tôi viết cho bạn bè tôi và vào tuổi này họ đang ít dần "đến bây giờ tôi mới ngấm câu này”  (sđd, tr. 91). Khiến ông "bỗng hiểu ra một điều đơn giản: Cuộc đời thật ngắn ủi và thế hệ chúng tôi đã bắt đầu sự kết thúc kiếp phù sinh của mình. Tất cả chúng tôi sắp đi qua hành tinh này mà không để lại vết xước nào". (sđd, tr. 169).
Vậy thì phải viết về họ, phải viết "về sự nhếch nhác trần ai của họ" (sđd, tr. 7), e rằng thời gian như thoi đưa, mau lẹ "gấp ruổi" (sđd, tr. 59) quá rồi, không thôi mình lại chẳng kịp hằn sâu dấu vết.

NHẾCH NHÁC TRẦN AI
* Thì họ cũng như ông, để sống còn, để nuôi vợ nuôi con, đã phải dấu mình bán chữ - bán chui, bán lén (hương hồn của những Trần Dần, của những Phùng Quán... đâu rồi). "... những người đang đi vào con đường viết lách, những cộng tác viên của một vài tờ báo, những người đang muốn có một cái truyện ký đầu tiên, hay cũng đã có một hai cái tin đăng báo và giờ đây đang giao du với những cán bộ biên tập các nhà xuất bản, những người đã có một vài sáng tác được in đang muốn kết nạp vào hội văn nghệ địa phương, kể cả hội nhà văn, rất cần bản thảo như một chứng chỉ". (sđd, tr. 82), hoặc, ban ngày ban mặt hơn, cho tỉnh uỷ nọ: "muốn có một bộ lịch sử Đảng bộ (...)mà không thể không có bản thảo, không thể không xuất bản tập lịch sử đảng bộ" (sđd, tr. 86-87). Lê Bầu. Lê Mạc Lân... đã nếm mùi tân khổ này.

* Thì họ cũng như ông, để còn sống, để nuôi vợ nuôi con, đã phải bán máu - bán những dòng máu đỏ đang thật sự chảy trong huyết quản, khi mình đà là những bộ xương bọc da, ốm nhom ốm nhách, lại còn phải dở trò gian lận, để bán được nhiều hơn bận trước. Chỉ cần "đeo thêm chì vào người để đạt trọng lượng 70 ký lô và bán được 250, 300 cc. (...) Thế là mất đi một tí máu, nhưng túi nằng nặng tiền và tem phiếu. Cho nên những ngày đi bán máu rất vui" (sđd, tr. 79). Rất vui, chua chát thay cho cuộc sống đoạ đày. Đoạ đày thể xác, đoạ đày tinh thần loại người lao động trí óc, khi họ ngơ ngáo ngồi chờ phiên mình: "Ngượng nghịu nhìn nhau. Rồi cũng quen dần. Lương thiện thì rõ ràng là lương thiện rồi. Nhưng nó tố cáo bước đường cùng. (...) Quần áo chỉn chu. Tóc chải gọn gàng. Mặt mũi sáng sủa, đi lại rón rén nhẹ nhàng chỉ trông cũng biết là người có học" (sđd, tr. 80-81). Dương Tường, (lại) Lê Mạc Lân... đã dấn thân sống tạm bợ như vậy một thời gian dài.

* Thì họ cũng như ông, để sống còn và, lần này, để "mơ ước về kiếp sau" (sđd, tr. 119)- đã phải trải qua cuộc đời lận đận chẳng kém gì cảnh ngộ lao lung và bị loại trừ ông từng gánh chịu. Cả cuộc đời bầm dập của Nguyễn Thị Hoài Thanh xuất phát từ "cái chuyện Nguyễn Cao Kỳ (tư lệnh không quân rồi phó thủ tướng nguỵ) là anh ruột (của) chị..." (sđd, tr.123), cộng thêm vô đó một thứ lộc trời cho: "Năm ấy, (chị) còn đang tuổi ba mươi. Thời con gái chị vốn xinh đẹp. Nhất dáng nhì da. Chị được cả hai. Nhưng hồng nhan đa truân. Hai lần kết hôn, hai lần li dị. Vẻ đẹp của tuổi ba mươi đang chín. Cái sắc đẹp không chủ đã gây cho chị biết bao khó khăn, nhiều khi cả nguy hiểm nữa" (sđd, tr. 126). Một thân một bóng nuôi con. Mẹ con chị ở nhà tập thể có chung mỗi một ô cửa ra vào độc nhứt, nửa gian phía ngoài dành cho mẹ con chị, nửa gian trong là kho chứa dụng cụ. Rồi một hôm, người ta bỗng dưng khoá cửa... kho dụng cụ, để "bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa", vì chị đã một mực không chịu "ra đụng vào chạm" (sđd, tr.126) với ông trưởng phòng. Rồi sau đó, cũng vì đã, lần này, “cự tuyệt thẳng thừng”(sđd, tr.127) ông chủ nhiệm, mà gian buồng chị ở bỗng dưng đầy nghẹt bàn ghế như nêm cối, chật cứng hết phương ra vào được nữa... Cuộc đời Nguyễn Thị Hoài Thanh rồi cứ thế mà tiếp diễn. Đau đớn thay, phận đàn bà".

* Thì họ cũng như ông... Còn nhiều cảnh tình khác nữa, mà những Hứa Văn Định, Nguyên Bình, Lê Đại Thanh, Nguyễn Thanh Bình, Vũ Tín... đã sống qua. Mà ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn đã níu kéo thời gian làm sống trở lại dưới mắt mình.

MỘT THỜI CÒN ĐÓ
Cũng tựa như nhà văn Pháp đầu thế kỷ XX tìm lại thời gian đã mất, Bùi Ngọc Tấn tái dựng khoảng thời gian ông và các văn nghệ sĩ bè bạn của ông đã trải qua. Còn đó, trên hơn 530 trang sách, khoảng thời gian đầy giông tố, bão bùng trùm phủ lên đầu hầu hết mọi người, mà bọn nhà văn nhà báo thi sĩ hoạ sĩ là những gương mặt gánh chịu nhiều hơn hết. Họ thuộc thành phần chân yếu tay mềm, dễ bề vùi dập, dễ bề vò nát. "... chúng tôi đều viết về con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, và khao khát được viết thật hơn, không chỉ có những thuận lợi mà còn những khó khăn, không chỉ những người trung thực, mà còn những kẻ quan liêu, những tên nịnh hót". (sđd, tr. 185). Và nhứt là vì họ "có cái đầu (...)để nghĩ", độc lập, không lệ thuộc, không xu phụ- trong "tình trạng có những cái đầu chỉ nghĩ theo những điều mà những cái đầu khác đã nghĩ sẵn cho mình". (sđd, tr. 73). Thế là dĩ nhiên họ bị "gay go" (sđd, tr. 185) cả lũ.

Hệt như chính ông trước kia, "một kẻ mới tập tọng vào nghề khi viết luôn có ở trước mặt những nhà phê bình. Họ nghiêm khắc nhìn tôi". Hệt như Nguyên Hồng bấy giờ: "Mình lăn lộn mình nghiền ngẫm, mình đọc, có khi 5 năm chục năm mới xong một quyển sách, mấy ông phê bình đọc vài đêm xong sáng tác của mình, thế là các ông ấy phán. Nào là chưa sâu, nào là thiếu tính giai cấp, hiện thực bị phản ánh một cách phiến diện". (sđd, tr. 388).

Qua ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn, mọi tình huống dầu đen tối hay cười ra nước mắt đến đâu, mọi cảnh ngộ dầu đau đớn hay tủi nhục đến đâu, thảy đều được miêu tả, trình bày một cách rất mực hiền lành, trung hậu. Câu văn cứ như phẳng lỳ, nhẵn nhụi, không lồi lõm, gồ ghề. Ngôn từ cứ như bình dị, không lời cao tiếng thấp,  không mát mẻ chua chát. Thể như sự việc thuật lại chỉ là một mớ dữ kiện ngoại tại, không dích líu tới mình. Thể như tác giả chỉ là kẻ đứng ngoài mà nhìn, hờ hững quan sát thế cuộc. Dẫu rằng mắt đẫm lệ trong miền xa cách.

Nhưng đó là lớp vỏ bọc ngoài.
Và trong trường hợp này, chúng ta chớ nên coi thường bãi nước đọng, như ngạn ngữ Pháp đã nhắc: il faut se méfier de l'eau qui dort.
Chính nhờ thứ bút pháp phẳng lì và bình dị này mà tâm tình sôi sục của Bùi Ngọc Tấn khôn thôi âm ỉ trong lòng tập sách vẫn cứ vang dội vào tai những ai chịu lắng nghe.
T.T.Đ
(196/06-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.