LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.
Phạm Quỳnh - Ngự tiền văn phòng, triều đình Bảo Đại - Ảnh: wiki
Đây là dịp để những người yêu văn học nghệ thuật thêm lần nữa suy ngẫm về thân phận một trí thức, một nhà văn hóa, một hiện tượng đang cần tiếp tục được làm sáng tỏ hơn. Riêng với Huế, những vấn đề liên quan đến thời gian Phạm Quỳnh sống ở Huế từ 1932 - 1945, những tác phẩm Phạm Quỳnh viết về Huế, những bài viết liên quan đến Phạm Quỳnh và triều Nguyễn, những di vật Phạm Quỳnh để lại Huế đang được gìn giữ đó đây... rất cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung thêm.
Nhân đây, Sông Hương xin đăng 2 trong số các tham luận tham gia của các nhà nghiên cứu Phan Thuận An và Nguyễn Đắc Xuân. Xin trân trọng giới thiệu!
SH
PHAN THUẬN AN
Bức trấn phong Thiên tử từ thần
Vào năm 1941, Phạm Quỳnh đang giữ chức Thượng thư Bộ Quốc dân Giáo dục (tức là Bộ Học cũ) tại Kinh đô Huế. Năm ấy, ông tròn 50 tuổi (tính theo tuổi ta). Nhân dịp vui này, một nhóm quan viên ở Bộ mừng ông một bức trấn phong bằng gỗ rất đẹp mà trên hai mặt của nó khắc một bài thơ chữ Hán hết sức độc đáo và có giá trị để chúc tụng ông.
Bài thơ và bức trấn phong tuy đã ra đời cách đây hơn 70 năm rồi và sở hữu chủ cùng gia đình ở bên bờ sông An Cựu đã trải qua bao nỗi thăng trầm đắn cay của lịch sử, nhưng với những giá trị đặc sắc về văn chương và nghệ thuật của nó, kỷ vật này đã được người Huế bảo quản một cách chu đáo và đang được trưng bày một cách trang trọng tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế (ở địa chỉ số 3 đường Lê Trực, Thành Nội).
Chúng tôi xin tạm đặt tên cho di vật quý báu này là Bức trấn phong Thiên tử từ thần, vì 4 chữ Thiên tử từ thần là nhan đề của bài thơ và được thể hiện bằng 4 chữ Hán lớn nhất trên đó.
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu về hình thức của bức trấn phong và nội dung của các văn tự được khắc ở cả hai mặt của nó.
![]() |
Bức trấn phong Thiên tử từ thần (mặt trước) |
Về hình thức, bức trấn phong này được làm bằng gỗ gõ, một loại gỗ quý, dễ chạm trổ nhưng rất bền chắc.
Đo tổng thể từ chân đến đầu, bức trấn phong cao 1,59m, rộng 1,41m. Mô-típ chạm trổ để trang trí ở cả 2 mặt trước và sau đều giống nhau. Nó được tạo hình theo dạng cuốn thư. Lòng trấn phong là một tấm gỗ liền cao 1,10m, rộng 0,76m, dày khoảng 2cm. Chân của nó là 4 con kỳ lân nối thân vào nhau thành từng cặp trong tư thế nằm: mỗi bên 1 cặp, 2 mặt nhìn về 2 phía trước và sau. Ở mỗi phía, 2 đầu 2 con 2 bên đều hơi hướng vào giữa. Mỗi cặp kỳ lân chỉ dài 46cm, nhưng thân rộng đến 18cm.
Phần trên và phần dưới của trấn phong đều được chạm lộng để tạo ra vẻ thông thoáng, nhẹ nhàng. Phần trên thể hiện đề tài lưỡng long (hai bên) chầu vào hình tròn lưỡng nghi (ở giữa). Rồng ở đây là loại rồng 4 móng, dành cho đối tượng quan lại. Phần dưới được chạm lộng đề tài lưỡng sư hý cầu (2 con sư tử 2 bên đùa giỡn với quả cầu ở giữa).
Hai má hai bên trấn phong được chạm nổi 2 đề tài mai điểu (cây hoa mai và chim) và tùng lộc (cây tùng và nai). Nhưng 2 đề tài này ở 2 mặt của trấn phong không được bố trí theo cùng một thứ tự: ở mặt trước, mai điểu nằm bên phải, tùng lộc nằm bên trái (theo hướng người nhìn), còn ở mặt sau thì tùng lộc nằm bên phải, mai điểu nằm bên trái.
Hai biên ở hai bên trấn phong là 2 khối gỗ hình trụ tròn, chung quanh chạm nổi đề tài vạn thọ, trên đỉnh là chuôi kiếm, phần dưới kiếm cắm chặt lên lưng của 2 cặp kỳ lân.
Có một dải trang trí rộng 4cm uốn lượn mềm mại và cân phân ở trên và dưới lòng trấn phong, chạy tiếp qua viền quanh 2 má của nó, được phân khoản thành từng ô hộc để chạm nổi các hình ảnh thuộc đề tài bát bửu: bầu rượu, pho sách, quạt vả, v.v.
Các hình ảnh trang trí ở đây, bao gồm cả cây cối và động vật, đều được thể hiện rất sinh động.
Riêng lòng trấn phong thì không trang trí, chỉ dành để trình bày phần văn tự. Ở cả 2 mặt, các văn tự đều được chạm chìm và thếp vàng.
Ở mặt trước, các dòng chữ Hán được bố trí như sau:
- Dòng ở giữa là 4 chữ đại tự:天 子 詞 臣 (Thiên tử từ thần) được viết theo kiểu chữ lệ. “Thiên tử từ thần” có nghĩa là bề tôi văn chương của vua. Ý nói Phạm Quỳnh là người rất giỏi về văn chương, có công lớn trong việc phò tá vua Bảo Đại về lĩnh vực này.
- Lạc khoản bên phải đề: 保 大 辛 巳 年 季 夏 (Bảo Đại Tân tỵ niên quý hạ), nghĩa là bức trấn phong được chế tác vào tháng 6 năm Tân Tỵ thời Bảo Đại, tức là tháng 7/1941.
- Lạc khoản bên trái viết:
國 民 教 育 部 侍 郎 陳 文 理, 阮 廷 誾, 佐 理 楊 文 龍, 阮 文 换, 阮 科 全, 並 部 院 屬 員 仝 拜
Phiên âm: Quốc dân Giáo dục Bộ Thị lang Trần Văn Lý, Nguyễn Đình Ngân, Tá lý Dương Văn Long, Nguyễn Văn Hoán, Nguyễn Khoa Toàn, tịnh Bộ Viện thuộc viên đồng bái.
Dịch nghĩa: Thị lang Bộ Quốc dân Giáo dục Trần Văn Lý, Nguyễn Đình Ngân, Tá lý Dương Văn Long, Nguyễn Văn Hoán, Nguyễn Khoa Toàn, và các viên chức thuộc Bộ, Viện cùng kính tặng.
Trong guồng máy tổ chức hành chính của triều đình nhà Nguyễn, cái tên Bộ Quốc dân Giáo dục là một danh xưng tương đối mới.
Bộ này được thành lập trong dịp cải cách hành chính của Nam triều vào năm 1933 làm cho “Năm cụ khi không ngã cái ình” mà nhiều sử sách đã ghi chép. Bộ này thay thế vai trò của Bộ Học được thành lập vào năm 1907 dưới thời Thành Thái. Sau 10 năm du học ở Pháp, vua Bảo Đại đã trở về nước vào năm 1932. Sau đó một năm, nhà vua đã ban hành những cải cách xã hội và hành chánh từ trung ương đến địa phương, trong đó có việc thiết lập Bộ Quốc dân Giáo dục và bổ dụng Phạm Quỳnh làm Thượng thư (nay gọi là Bộ trưởng) của Bộ này. Ông giữ chức vụ vừa nói từ ngày 2/5/1933 đến ngày 12/5/1942 là thời điểm ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ Lại. Ở mỗi Bộ bấy giờ có 2 chức Thị lang: Tả Thị lang và Hữu Thị lang với trật Chánh tam phẩm. Trần Văn Lý (sinh năm 1901) được cử giữ chức Tả Thị lang Bộ Quốc dân Giáo dục vào năm 1940. Còn Nguyễn Đình Ngân thì giữ chức Hữu Thị lang. Vào thời gian này, Nam triều thành lập Viện Văn hóa Trung Kỳ, trực thuộc Bộ Quốc dân Giáo dục. Hữu Thị lang Nguyễn Đình Ngân được giao nhiệm vụ phụ trách Viện Văn hóa. Bức trấn phong ra đời trong bối cảnh lịch sử tổ chức hành chính ấy, tức là vào tháng 7/1941 như được ghi ở mặt trước của nó.
![]() |
Bức trấn phong Thiên tử từ thần (mặt sau) |
Nhưng, nội dung chính mà phần văn tự muốn chuyển tải thì lại nằm ở mặt sau. Đây chính là phần hồn của bức trấn phong. Ở lòng mặt sau là một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú với niêm luật rất hoàn chỉnh. Bài thơ được thể hiện theo lối hành thư. Nét chữ đẹp. Sau mỗi câu, còn ghi thêm tên của một nhân vật họ Phạm trong lịch sử Trung Hoa với cỡ chữ nhỏ hơn rất nhiều. Với cách ghi như vậy, khi mới nhìn qua, người ta dễ có cảm tưởng mỗi nhân vật họ Phạm ấy là tác giả của một câu thơ. Nhưng, khi đọc và tìm hiểu kỹ, chúng tôi thấy không phải như thế. Tác giả của bài thơ này chính là nhóm quan viên thuộc Bộ Quốc dân Giáo dục nói trên: Trần Văn Lý, Nguyễn Đình Ngân, Dương Văn Long v.v. Nội dung mỗi câu thơ nói lên biệt tài văn chương, học thuật hoặc kinh bang tế thế của một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung Hoa.
Nguyên văn bài thơ như sau:
文 章 獨 擅 一 家 雄 范 翬
天 下 詞 壇 有 折 衷 范 成 大
志 在 先 憂 宜 後 樂 范 仲 淹
心 能 篤 孝 又 纯 忠 范 纯 仁
朝 廷 規 制 多 親 草 范 文 程
庠 序 儀 型 振 晚 風 范 寧
位 列 中 書 聲 價 重 范 俊
長 生 遠 煥 范 賢 公 范 啟
Phiên âm:
Văn chương độc thiện nhất gia hùng. Phạm Huy
Thiên hạ từ đàn hữu chiết trung. Phạm Thành Đại
Chí tại tiên ưu nghi hậu lạc. Phạm Trọng Yêm
Tâm năng đốc hiếu hựu thuần trung. Phạm Thuần Nhân
Triều đình quy chế đa thân thảo. Phạm Văn Trình
Tường tự nghi hình chấn vãn phong. Phạm Ninh
Vị liệt trung thư thanh giá trọng. Phạm Tuấn
Trường sinh viễn hoán Phạm hiền công. Phạm Khải
Tạm dịch xuôi:
Phạm Huy là một người giỏi nhất về văn chương.
Phạm Thành Đại là người tinh lọc được các giá trị thơ văn trong thiên hạ.
Phạm Trọng Yêm là người có ý chí lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ.
Phạm Thuần Nhân là người có lòng lo tròn chữ hiếu và giữ vẹn chữ trung.
Phạm Văn Trình là người tự tay thảo ra phần lớn các quy chế của triều đình.
Phạm Ninh là người khuôn mẫu của nền giáo dục, từng chấn chỉnh học phong khi đã bị suy yếu.
Phạm Tuấn là người đã được xếp vào tòa trung thư với tiếng tăm vang dội và phẩm giá cao thượng.
Phạm Khải là một kẻ hiền tài đã hưởng được tuổi thọ rất cao và danh tiếng vang xa.
Trung Quốc Nhân danh Đại từ điển (do Đài Loan Thương vụ Ấn thư quán tái bản và phát hành vào năm 1959) có nhắc đến tiểu sử và sự nghiệp của các nhân vật vừa nói, ngoại trừ Phạm Huy. Đại lược về họ như sau:
- Phạm Thành Đại: Người sống dưới thời nhà Tống (960 - 1279). Tên tự là Trí Năng. Hiệu là Thạch Hồ Cư Sĩ. Thi đậu Tiến sĩ, ra làm quan với chức Viên ngoại lang ở Bộ Lễ. Có đến giảng sách ở điện Sùng Chính. Sau đó được thăng lên Sùng Chính điện Đại học sĩ. Khi chết, được tặng chức Thiếu sư, rồi truy phong là Sùng Quốc Công với tên thụy là Văn Mục. Ông nổi tiếng về văn chương, giỏi về thơ. Có Thạch Hồ thi tập và nhiều sách khác, như Ngô đô chí, Phạm thôn Mai cúc phổ, Ngô thuyền lục v.v.
- Phạm Trọng Yêm: Cũng là người thời nhà Tống. Tên tự là Hy Văn. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhưng quyết chí học hành. Đỗ Tiến sĩ. Ông là người có khí tiết. Làm quan từ trong triều đến ngoài nội, đâu đâu ông cũng là người nội cương ngoại hòa, lấy việc của thiên hạ làm việc của mình. Ông từng nói: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Khi ông mất, ai cũng thương tiếc ngậm ngùi.
- Phạm Thuần Nhân: Người thời nhà Tống. Con trai của Phạm Trọng Yêm. Tên tự là Nghiêu Phu. Thi đậu Tiến sĩ nhưng vẫn theo học những người nổi tiếng. Khi cha mất mới ra làm quan. Giữ nhiều chức vị lớn ở trong triều cũng như khi đi nhậm chức ở các địa phương. Khi chết, được tặng tên thụy là Trung Tuyên. Có để lại các quyển Văn tập và Tấu nghị. Ông đã từng nói rằng: “Sở học đời tôi chỉ có hai chữ trung và thứ, dùng một đời không hết”. Thường dùng ý đó để dạy con em.
- Phạm Văn Trình: Sống vào đầu thời nhà Thanh (1616 - 1911). Tên tự là Hiến Đẩu. Hiệu là Huy Nhạc. Theo giúp vua Thanh Thái tổ, làm việc ở Văn quán, đưa ra nhiều kế sách để chiêu hàng các tướng nhà Minh và thu phục được nhiều vùng đất. Làm quan đến chức Bí thư viện Đại học sĩ. Thường bàn nghị và trù hoạch những kế sách lớn lao. Khi vua Thanh Thế tổ (niên hiệu Thuận Trị: 1644 - 1657) bình định được thiên hạ thì phần lớn các kế hoạch mở mang đất nước thuở ban đầu là đều do Phạm Văn Trình đưa ra. Sau đó, ông được thăng lên chức Thái phó. Lúc chết, được tặng tên thụy là Văn Túc.
- Phạm Ninh: Người thời nhà Minh (1368 - 1644). Tên tự là Trọng Ninh. Được học trường Quốc Tử Giám. Có công lớn trong việc biên soạn bộ Vĩnh Lạc đại điển. Được đưa lên giữ chức Giám sát Ngự sử. Ông phát hiện được những kẻ gian tà ẩn lậu, làm cho nhân tài và hào khí phấn chấn. Người ta cho ông là người giỏi như thần. Sau đó, ông qua giữ chức Thượng bửu thừa; rồi chức Bố chính ty Đề khống, nhưng chưa đến nhậm chức thì đã qua đời.
- Phạm Tuấn: Về chữ Tuấn, trong Trung Quốc Nhân danh Đại từ điển viết bộ thủy 浚, còn ở bức trấn phong thì viết bộ nhân 俊. Có lẽ ở đây viết nhầm. Theo từ điển ấy thì Phạm Tuấn người thời nhà Tống. Tên tự là Mậu Minh. Dưới thời Tống Cao Tông, trong niên hiệu Thiệu Hưng (1131 - 1161), ông được cử giữ chức Hiền lương Phương chính. Nhưng sau đó, ông thấy Tể tướng Tần Cối, một người gian nịnh, nghị hòa với giặc Kim làm cho đất nước không khá lên được, ông từ quan về nhà đóng cửa dạy học và quyết chí cầu đạo. Được các học giả đương thời gọi là Hương Khê Tiên sinh, ông có để lại cho đời Hương Khê tập.
- Phạm Khải: Cũng là người thời nhà Tống. Tên tự là Di Phát. Hiệu là Cầu Hoàn. Ông học rộng, biết hết mọi lẽ. Là người cao thượng, ông không thích ra làm quan để được vinh thân phì gia. Vua Tống Lý Tông (1225 - 1264) cố mời nhưng ông không xuất sĩ. Nhà vua tặng cho ông danh hiệu Phong Nguyệt Thịnh Sĩ. Ông có trước tác các sách Kê lặc mạn lục, Quản chùy tạp chí, Tỉnh quan tạp thuyết.
Đáng tiếc là chúng tôi chưa tìm ra được những dòng lược truyện như vậy về Phạm Huy, nhưng chỉ chừng ấy thôi cũng đã tạm đủ cơ sở để có thể đưa ra mấy nhận định sau đây về nội dung bài thơ:
- Cuộc đời của mỗi nhân vật trên đây là phù hợp với nội dung của một câu thơ nằm trước tên mình.
- Họ đều là những người có nhân cách tốt đẹp, phẩm hạnh cao nhã, giỏi về văn chương, hơn người về tài trí, hoặc có xuất chính giúp cho triều đại mà họ sống, hoặc ẩn cư để giữ tròn danh tiết. Hầu hết họ là những văn thần từng đem chất xám của mình ra để giúp vua giúp nước. Cho nên, nhan đề của bài thơ trên bức trấn phong đã được đặt tên là Thiên tử từ thần.
Mặc dù trên cả 2 mặt của bức trấn phong không hề có văn tự nào ghi cụ thể tên họ và chức vụ của người được tặng, nhưng khi tìm hiểu kỹ chữ nghĩa trên đó cũng như bối cảnh lịch sử của niên đại mà nó xuất hiện, chúng ta có thể khẳng định được rằng tập thể tác giả bài thơ đã mượn uy tín của 8 danh sĩ văn thần họ Phạm trong lịch sử Trung Hoa để gián tiếp cầu chúc “Phạm hiền công” sống lâu (trường sinh), đồng thời ca ngợi tài năng và đạo đức của vị đại thần họ Phạm đang đứng đầu Bộ Quốc dân Giáo dục.
Nhìn chung cả hình thức lẫn nội dung, bức trấn phong Thiên tử từ thần là một hiện vật bảo tàng mang giá trị cao về mặt nghệ thuật tạo tác và chứa đựng một bài thơ có giá trị văn học đặc biệt thuộc loại chơi chữ, chơi thơ.
Ngày nay, chúng ta đã có đủ độ lùi của thời gian lịch sử để có thể đánh giá một cách trung thực và khách quan về vị “quan lớn có học vấn uyên bác có thể nói là bậc nhất thời đó” (nhận định của Trần Khuyết Nghi trong sách Phạm Quỳnh một góc nhìn, tập 2, 1912, trang 149). Lời ca tụng vị Thượng thư họ Phạm qua bài thơ trên là của những người đồng liêu, một số văn nhân đương thời. Nếu bình tâm nhìn vào nhân cách khả kính của người được tặng bài thơ thì nội dung của nó không hoàn toàn mang tính chủ quan.
Qua bài thơ đặc biệt ấy, vô hình trung, người xưa đã đánh giá nhân vật họ Phạm này như là một bậc hiền tài của đất nước. Cho dù có những người khác từng dựa vào quan điểm lập trường cứng nhắc để báng bổ ông, nhưng, với những công trình học thuật đồ sộ của ông, với nhân cách cao quý của ông, và với sự bắt đầu “điều chỉnh nhận thức” về ông trong mấy chục năm qua, người đời sẽ minh xác về phẩm giá của ông một cách khách quan và công bằng.
P.T.A
(SH284/10-12)
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.