NGUYỄN KHẮC THẠCH
Lâu nay, trên thi đàn bon chen vẫn thấp thoáng những bóng chữ u mê phóng chiếu cốt cách thiền. Người ta quen gọi đó là thơ thiền.
Ảnh: internet
Song, việc phân cách đặc trưng và nội hàm của nó mới chỉ là những thông ước chung trong trường nghĩa tập mờ. Sự à uôm giải đải của thói quen phiến diện trên bề mặt sự vật đã nhìn nhận thơ thiền ở tầng nghĩa y thức mà không đi sâu vào tầng nghĩa y trí. Bởi vậy, ở bình diện giữa đề tài với loại thể hoặc giữa hình thức với nội dung của dạng thơ này thật khó phân biện.
Thơ và thiền vốn là hai phạm trù đối ngẫu vừa có nét tương đồng, vừa có phần dị biệt nhưng qua cuộc “hôn phối ngôn từ” thành cặp thơ thiền thì tại điểm đồng quy của chúng dường như chỉ còn tuyệt đối một. Tôi đã bồng bềnh qua Thiền mây - tập thơ mới của thi sĩ Trần Lan Vinh với chiêu thức quyến niệm một thực tại ảo bằng kinh nghiệm tâm linh trong cõi định vô ngôn để nghe tiếng vỗ một bàn tay buông mật ngữ thơ thiền. Thì ra thơ thiền không phải là sự vận hành ý tưởng qua dây chuyền cấu trúc cảm hứng của chủ thể để tạo ra tác phẩm nghệ thuật cho đối tượng có nhu cầu thụ hưởng nó. Thơ thiền là tia chớp trực ngộ của tâm hồn thi nhân băng qua mọi hàng rào khái niệm và phủ nhận mọi hình thức khẳng định cái tôi bản ngã. Nó trống vắng mọi kĩ năng kĩ xảo của thi pháp. Nó đến với người đọc cũng bằng sự chiêu cảm trực giác của họ mà không cần bất cứ một nỗ lực đáng kể nào từ trí lí. Trần Lan Vinh đã nương ngón tay chỉ trăng quán chiếu những bí ẩn u huyền diệu vợi của vạn hữu giữa chơi vơi:
Đêm thả giọt sao về cõi núi
Câu kinh tụng cởi kiếp luân hồi
Mưa tạnh lâu rồi nghe gió thổi
Hồn sương bỏ lối trắng chơi vơi
Vẻ tự nhiên nhi nhiên nhưng nó khuấy động những thâm căn thầm kín trong hiện thể nhân tình. Một cánh diều trăng huyền ảo cũng đủ nới rộng đường biên thực tại mà nơi đó không còn ý niệm nhị nguyên.
Một thoáng lửa chài trong sương trắng
Bờ tre níu lặng cánh diều trăng
Sóng nhập hồn sông lời nước chảy
Chuông chùa vọng đáy bước thinh không
Phải chăng tác giả đã đạt tới sự trải nghiệm tam muội trong cảnh giới chân thiền? Nơi đó là sự đồng nhất thể giữa con người và vũ trụ, giữa hữu hạn với vô biên. Thi sĩ qua đây cũng hoang dã như hoa cỏ. Tâm thức hiến dâng vô niệm hay sự hào phóng siêu nhiên là phẩm cách huyền cơ của những sinh linh hàng á thánh. Đấy cũng là phép nhiệm mầu khả thủ hoán vị vòng tri kiến giả lập giả danh bằng thực tại tri thức tối thượng. Người nghệ sĩ đích thực bao giờ cũng được mặc khải căn lành khai thị niềm thức ngộ của mình qua tác phẩm. Thơ thiền là nghệ thuật của chân không diệu hữu được kí thác bởi những pháp giới vô vi, những tâm hồn vô ngã. Ở bình diện khác thì thơ thiền là sự khế hợp không gian tâm cảnh với thời gian đồng hiện qua trường nghĩa mơ hồ và bất lực của ngôn từ. Những bài kệ hàm tính mục đích trong cửa nhà thiền dù có hình thức giống thơ đến mấy cũng không thể gọi là thơ thiền. Song, để định danh nó trong quan hệ loại thể thì có thể “cơ cấu” vào chiếu thơ đề tài thiền. Bài Cư trần lạc đạo của Sơ tổ Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông thực chất là 4 câu kệ trong bài phú cùng tên mà vẫn lấp lánh đặc trưng thơ nhưng chưa phải thơ thiền vì nó vẫn còn chỗ phân biệt “đối cảnh” với “vô tâm” dù rất vi tế (Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền). Sự chia chẻ ở đây nhằm khảo sát tính chất chứ không phải đong lường giá trị. Một bài thơ thường chỉ mang lại trạng thái “giải tỏa” còn một bài kệ có khi thức ngộ đến cửa “giải thoát”. Cũng vậy, nếu là “tùy duyên” thì những bông hồng chưa hẳn đẹp hơn bông dược thảo. Thấm vào tôi từ lúc nào hương dược thảo ấy của một đồng nghiệp là nhà thơ Thu Nguyệt mà man mác mãi mùi thiền: Bàn tay nắm lại xòe ra/ nắm là thấy có buông là thấy không...
Thơ Trần Lan Vinh nói chung vốn ảo lạ từ xúc cảm đến biểu cảm, từ ý tưởng đến ngôn từ. Những ám tượng chung chiêng khúc xạ trong miền vô thức luôn dự nghiệm qua giọng thơ này. Vô thức là không gian phù thủy đầm đìa năng lượng tối mang hệ lụy bảo trì mọi xung lực nghệ thuật cho những linh căn đồng sàng chia sẻ. Riêng tập Thiền mây gần cả trăm bài này, tuy cùng thể loại (thất ngôn tứ cú) tưởng chừng như đơn điệu hoặc trùng lặp nhưng mỗi bài đều đa nghĩa và án ngữ hồn cốt riêng của nó. Nó thanh tú uyển nhã như tranh thủy mặc: Đồng xưa khói rạ hương cỏ ngái/ xóm bãi chày ai giã vợi chiều. Hoặc trầm lắng uyên áo như đài thuyết pháp: Rừng thông lá nắng vàng sóng sánh/ mây vào tận sảnh lắng nghe kinh. Có thể nói Thiền mây của Trần Lan Vinh là những ngõ đất- ao chùa - hồn mai - thỉnh nụ - tìm - niết bàn trong thiền uyển. Giữa cái vườn thiền thơ mênh mang tĩnh mạc này, người ta cũng có thể nghe một tiếng hét lạnh trời của Không Lộ thiền sư, một tiếng nước khua lòng ao xưa của con ếch Basho hoặc thấy một cành mai trổ rạng đêm của thiền sư Mãn Giác.
Và giữa muôn trùng sắc không hằng hữu ấy, ngôi đền thơ xao xuyến ấp iu Trần Lan Vinh hẳn còn duyên khải huyền tụng niệm...
N.K.T
(SH283/09-12)
NGUYỄN THÙY TRANG
THÍCH CHẤN ĐẠO
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một Thiền phái nhất tông mang tinh thần nhập thế tích cực đã góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
MAI VĂN HOAN
Nhà thơ Trần Vàng Sao, tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 ở thôn Vỹ Dạ, thành phố Huế.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Gánh gánh… gồng gồng…”, Hồi ký của Xuân Phượng, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, 2020; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2020)
VŨ NGỌC GIAO
Có một lần tôi đã chia sẻ với nhà văn Vĩnh Quyền rằng, tôi rất thích Rừng Na uy.
VƯƠNG HỒNG
Ưng Bình Thúc Giạ Thị quê phường Vỹ Dạ, thành phố Huế, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1877, mất ngày 4 tháng 4 năm 1961. Ông là cháu nội Tuy Lý vương Miên Trinh, một nhà thơ nổi tiếng với "Vỹ Dạ Hợp tập".
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Trên Tạp chí Sông Hương số 379 (9/2020) và Báo Thừa Thiên Huế, tôi đã có giới thiệu lại cuốn “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc” do Nguyễn Khắc Bảo công bố (Nxb. Lao động ấn hành, 2017).
NGUYỄN THANH TÂM
Trương Đăng Dung làm thơ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Thầm lặng, con người thi ca ấy ẩn khuất sau dáng vẻ của một nhà lý luận, để hơn 30 năm sau, cựa mình trỗi dậy.
HOÀNG THỊ THU THỦY
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (04/10/1920 - 04/10/2020)
LÊ TUẤN LỘC
MAI VĂN HOAN
Trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, họ tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta nhưng bất thành. Chúng ta có chịu ảnh hưởng về tư tưởng, về giáo dục, về văn hóa, nghệ thuật… của họ nhưng dứt khoát không bị đồng hóa.
LƯỜNG TÚ TUẤN
“Thì đem vàng đá mà liều với thân” - Nguyễn Du
Kỷ niệm 255 năm ngày sinh (1765 - 2020), 200 năm ngày mất Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (16/9/1820 - 16/9/2020)
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
ĐỖ LAI THÚY
Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của cuộc sống là sáng tạo
H. Bergson
BỬU Ý
Nguyễn Đức Sơn sinh 18/11/1937 tại làng Dư Khánh (Thanh Hải) gần bên bờ biển Ninh Chữ tỉnh Ninh Thuận.
LÊ THÀNH NGHỊ
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xuất hiện từ đầu những năm bảy mươi của thế kỷ XX, khi chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt trên cả hai miền đất nước. Quảng Bình, quê hương của Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những vùng đất bom đạn tàn khốc nhất.
NGUYỄN HỮU QUÝ
Biển. Những con sóng. Những con sóng làm nên biển cả mênh mang. Hay diễn đạt cách khác, biển bắt đầu từ sóng.
LÝ HOÀI THU
Lưu Quang Vũ mở đầu sự nghiệp cầm bút bằng thơ. Đó là phần Hương cây trong tập Hương cây - Bếp lửa in chung với Bằng Việt.
THÁI HẠO
Tặng Mẹ và Em!
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng - Tuệ Sỹ