Việt Nam có nguồn lực văn hóa dồi dào, với các di sản vật thể và phi vật thể đa dạng. Nếu có chính sách hợp lý, chúng ta có thể đưa văn hóa trở thành động lực cho sự phát triển hài hòa và bền vững.
Festival Huế đã trở thành thương hiệu quốc tế - Nguồn: ITN
Văn hóa “hóa” kinh tế
Văn hóa vốn thường được coi là hoạt động phi sản xuất, phi kinh tế và lợi nhuận, nhưng theo PGS.TS. Nguyễn Văn Cương, Hiệu trưởng Trường ĐH Văn hóa Hà Nội, văn hóa là hoạt động sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị, công trình lưu giữ từ đời này sang đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống của con người. Văn hóa xuất hiện trong xã hội không chỉ mang tính chất tinh thần, không vụ lợi, mà còn có tính kinh tế, hàng hóa, tính thương mại dưới những hoạt động kinh doanh đa diện và phức tạp. Với thực tiễn sinh động của sự phát triển và hoạt động văn hóa cho thấy, hoàn toàn có khả năng làm kinh tế một cách có văn hóa, tức là văn hóa “hóa” lĩnh vực kinh tế và làm kinh tế trong lĩnh vực văn hóa; đưa văn hóa trở thành động lực cho sự phát triển hài hòa và bền vững.
Thực tế, Nhà nước ta luôn coi trọng sự phát triển văn hóa, và đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển văn hóa gắn với kinh tế. Văn hóa ngày càng phát huy giá trị, mang lại hiệu quả to lớn. Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Nam Đinh Hài nhận định: Di sản văn hóa, qua bảo tồn và phát huy, đã có tác động hữu ích vào đời sống thực tế. Trong những năm qua, di sản văn hóa góp phần thu hút khách du lịch tới Quảng Nam. Năm 2016, tỉnh đón trên 4 triệu khách, trong đó 50% là khách quốc tế, đem lại lợi ích phát triển kinh tế địa phương. Điều đó cho thấy, di sản văn hóa không chỉ là bộ phận quan trọng của quá khứ để lại, mà còn là nhân tố tích cực phát triển kinh tế, du lịch. Hay tại di tích Bà Chúa Xứ, Núi Sam, An Giang, mỗi năm bình quân thu 75 - 80 tỷ đồng, nguồn kinh phí này được sử dụng để bảo tồn di tích, nâng cấp cơ sở hạ tầng và thực hiện chính sách an sinh xã hội tại địa phương của huyện Châu Đốc và tỉnh An Giang...
Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, các chính sách văn hóa đã tạo chuyển biến tích cực, tác động lại việc lưu giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể: Các loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống được đầu tư, nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi; hệ thống di tích lịch sử văn hóa từ Trung ương đến cơ sở được tôn tạo, chống xuống cấp; hoạt động lễ hội được tổ chức sôi động, đặc biệt là các lễ hội có quy mô quốc tế (Festival Huế, Festival cồng chiêng Tây Nguyên...) góp phần giữ gìn bản sắc và tăng cường hội nhập.
Tập trung vào con người
Tuy nhiên, nguồn lực văn hóa Việt Nam chưa đem lại hiệu quả to lớn như tiềm năng. PGS.TS. Nguyễn Văn Cương cho rằng: Mức đầu tư ngân sách cho văn hóa nói chung còn thấp, chưa tương xứng với phát triển kinh tế và ít hiệu quả. Bên cạnh đó, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ làm công tác văn hóa bất hợp lý; chủ trương xã hội hóa văn hóa chưa phát huy được hiệu quả cao. Mặt khác, do chưa thấy hết vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế và xã hội, nhiều địa phương ít quan tâm nên bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa còn hạn chế trên một số mặt...
“So với lĩnh vực kinh tế - xã hội, số chính sách liên quan đến văn hóa ít về số lượng, hiệu quả thấp, một số chính sách không đi vào cuộc sống. Đặc biệt, số lượng chính sách văn hóa về miền núi phía Bắc và vùng dân tộc thiểu số nhiều bất cập, thiếu tính đặc thù, khó thực thi trong thực tiễn” - TS. Trần Hữu Sơn, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du Lịch Lào Cai nhận xét và nêu ví dụ: Định mức phân bổ chi sự nghiệp văn hóa, thông tin chủ yếu căn cứ vào tiêu chí dân số nên không phù hợp với vùng cao. Bởi diện tích các xã vùng cao lớn nhưng dân số ít, nhiều xã diện tích bằng cả một huyện của đồng bằng nhưng dân số chỉ bằng 1/10 của một xã đồng bằng. Tính theo tiêu chí này, nhiều xã vùng cao mỗi năm chỉ có 5 - 7 triệu đồng chi cho hoạt động văn hóa, thông tin. Số tiền này không đủ tổ chức một giải thi đấu thể thao trong dịp Tết Nguyên đán... Bên cạnh đó, tỷ lệ ngân sách chi cho hoạt động văn hóa ở nhiều tỉnh miền núi phía Bắc chỉ chiếm dưới 1% tổng chi thường xuyên của tỉnh.
Theo các nhà nghiên cứu, cần hoàn thiện hệ thống chính sách, coi đây là giải pháp tiền đề biến văn hóa thành sức mạnh nội sinh, tạo động lực xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; đặc biệt là những cơ chế, chính sách đặc thù như: Chính sách kinh tế trong văn hóa (gồm chính sách thuế, giá, đầu tư, hình thành các quỹ hỗ trợ...); chính sách sử dụng, đãi ngộ văn nghệ sĩ có nhiều đóng góp; chính sách khuyến khích sáng tạo trong văn hóa, nghệ thuật... “Cần ưu tiên cho các chính sách và giải pháp mang tính cầu nối giữa kinh tế và văn hóa tập trung vào con người và vì con người để hạn chế tác động tiêu cực từ phát triển kinh tế đến văn hóa, nhân lên ảnh hưởng tích cực, rút ngắn khoảng cách về thụ hưởng văn hóa, để văn hóa tự tin phát triển cùng kinh tế” - PGS.TS. Nguyễn Văn Cương góp ý.
Theo Ngọc Phương - ĐBND
Theo định hướng phát triển hiện nay, Huế sẽ là đô thị trung tâm, đô thị hạt nhân giữ vai trò động lực cho Thành phố trực thuộc Trung ương trong tương lai.
Thuở xưa, mỗi làng có một hương ước, nhiều làng có hương ước thành văn nhưng cũng có làng có hương ước bất thành văn.
Khi nhắc đến xứ sở Phù Tang, điều đầu tiên thế giới nghĩ đến là một Nhật Bản thần kỳ, giàu mạnh về kinh tế và điều thứ hai chắc chắn sẽ là sự đối mặt thường xuyên với thảm họa thiên tai.
“Có động đất ở Nhật Bản!” Tôi đang loay hoay xếp lại chồng sách vở ngổn ngang trên bàn thì nghe chồng tôi, giáo sư Michimi Munarushi người Nhật mới về Việt Nam 3 hôm trước báo.
Không có một vùng đất thứ hai nào trên dải đất hình chữ S của Việt Nam có vị trí hết sức đặc biệt như Huế. Nơi đây, từ 1306, bước chân Huyền Trân xuống thuyền mở đầu cho kỷ nguyên mở nước về Nam, Thuận Hóa thành nơi biên trấn.
I. Đặt vấn đề 1.1. Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương trong vài năm tới đã trở thành quyết tâm chính trị của cán bộ đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế.
Thăng Long - Hà Nội, thủ đô, trái tim của cả nước, qua ngàn năm phát triển, đã trở thành biểu tượng của nền văn hiến Việt Nam, là niềm tự hào của cả dân tộc.
Sau khi phục dựng thành công lễ tế Nam Giao và lễ tế Xã Tắc trong những năm qua, thiết nghĩ việc tái hiện lễ tế Âm Hồn 23.5 ở quy mô thành phố/ tỉnh là một việc làm có ý nghĩa trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa và quảng bá du lịch của thành phố Huế chúng ta.
Thừa Thiên Huế - vùng đất chiến lược nối giữa hai miền Bắc - Nam từng là “phên dậu thứ tư về phương Nam” của Đại Việt, nơi “đô hội lớn của một phương”; từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong, kinh đô của đất nước dưới thời Quang Trung - Nguyễn Huệ và triều Nguyễn (1802 - 1945); là miền đất địa linh nhân kiệt gắn liền với những tên tuổi lớn trong hành trình lịch sử của dân tộc, của ngàn năm Thăng Long...
Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc trung ương trong vài năm tới theo tinh thần kết luận số 48 của Bộ Chính trị đã mở ra một mốc mới mang tính lịch sử. Với kết luận này, đặt ra nhiệm vụ cho Huế phải trở thành trung tâm của khu vực miền Trung và là một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước về văn hóa, du lịch, khoa học công nghệ, y tế chuyên sâu và giáo dục đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực.
Ôn cố để tri tân, Festival Huế 2010 là lần tổ chức thứ VI. Qua 6 lần tổ chức, nhìn lại những ngày liên hoan văn hóa Việt Pháp (1992) do thành phố Huế phối hợp với Codev tổ chức, anh chị em văn nghệ sĩ Huế lúc bấy giờ phấn khích lắm vì đây là cơ hội tiếp xúc với thế giới dù chỉ mới có một nước Pháp. Họ thấy cần có trách nhiệm phải tham mưu để xây dựng chương trình cũng như chủ động tham gia hoạt động trong lĩnh vực của mình.
Như thường lệ, hàng năm Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế tiến hành xét tặng thưởng cho các tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc.
Chúng ta đã đi hết gần chặng đường 10 năm đầu của thiên niên kỷ mới. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại mà sự phát triển song hành giữa cơ hội và thách thức đan xen.
(Thừa Thiên Huế trên tiến trình xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương)
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX, cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới diễn ra sôi động trên đất nước Việt Nam, sức sống của vùng văn hoá Huế sau những năm dài tưởng chừng đã ngủ yên chợt bừng dậy và lấp lánh tỏa sáng.
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
Gần đây, khi Đảng ta chứng tỏ sự quan tâm của mình đối với đội ngũ trí thức thì trong dư luận cũng đã kịp thời có những phản ứng cộng hưởng. Điều mà chúng tôi lĩnh hội được gồm 3 câu hỏi tưởng chừng như "biết rồi khổ lắm nói mãi" nhưng lại không hẳn thế. Nó vẫn mới, vẫn nóng hổi vì sự tuyệt đối của qui luật vận động cũng như vì tính cập nhật, tính ứng dụng của đời sống. Chúng tôi xin được nêu ra và cùng bàn, cùng trao đổi cả 3 vấn đề.
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.