Biến tấu New York

09:15 22/10/2008
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

Tôi chuyển đến New York (NY) là do một đám cháy lớn. Tất nhiên, đám cháy chỉ là cách nói hình ảnh để nói về một trạng thái khác thường của sự việc mà trong trường hợp của tôi đó là một cuộc cách mạng. Ngày thứ hai ở NY, tôi thức dậy lúc bốn giờ sáng. Nhìn qua cửa sổ phòng ở tầng mười chín, NY dường như bị cháy, các tòa nhà cao tầng ngập trong lửa, hàng nghìn hàng nghìn tấm thủy tinh lấp lóa màu đỏ máu, những con chim đen lao lên bầu trời - cảnh tượng hệt như ngày tận thế. Khi cảnh đó dứt, đồng hồ báo thức của tôi vẫn chạy theo giờ California ; một ngày mới bắt đầu ở NY. Đêm đó, mặt trăng NY làm tôi giật mình. Một vầng trăng sáng to nhô lên giữa hai tòa nhà cao, nhưng dù nhìn cách gì tôi vẫn thấy trăng không thật tròn. Nếu bạn yêu cầu trẻ em NY vẽ trăng thì hầu hết trăng trên các bức vẽ của chúng đều không tròn mà bị so le, méo mó, bị cắt xén bởi kính và bê tông.

Năm 1626, một giám thị người Hà Lan đã mua lại Manhattan - hòn đảo đá dài ba mươi dặm và rộng hai dặm rưỡi - từ những người Anh Điêng bằng những đồ vật rẻ tiền giá khoảng hai mươi tư đô la. Vào thế kỷ mười chín, do bê tông cốt sắt được sử dụng rộng rãi, mọi người lên cơn sốt làm nhà cao vọt lên trời, cho đến một ngày người NY phát hiện ra rằng họ giống như chim làm tổ giữa rừng bê tông.
Người NY
không có khả năng hình dung đường chân trời, lọt lòng ra họ đã không có khái niệm này. Nếu ở California tư duy của tôi là theo trục hoành thì ở đây chắc chắn nó theo trục tung. Khi thang máy mang tôi từ tầng trệt lên tầng mười chín, ý nghĩ của tôi theo quán tính chuyển động lên cao, tiếp tục vươn lên vòm xanh bầu trời. So với dân số của nó thì ít người NY theo tôn giáo. Sau một lúc suy nghĩ, tôi rút ra kết luận là điều này có liên quan đến các thang máy. Khi bạn suốt ngày cứ lên trời rồi xuống đất thì hầu như không thể có bất kỳ cảm giác nào về sự thần bí của thiên đường và địa ngục. Trong chừng mực nào đó, thang máy đã trở thành nguyên động lực của tư duy của người NY. Nếu mất điện, họ sẽ bị lơ lửng lưng chừng trời, và có thể bị phát điên.

Ngày thứ hai ở NY, tôi lang thang phố xá, ghi chép về mọi người. Ngoài hướng trục tung, tư duy của họ chắc chắn còn mang đặc điểm tuyến tính. Thí dụ họ không bao giờ mơ hồ khi hò hẹn:

23rd Street
Seventh Avenue , hay giữa Wall Street và Broadway. Về sau tôi bắt đầu hiểu rằng họ chỉ là những quân cờ trên bàn cờ. Đường đi nước bước của họ đã cố định và bàn tay nhấc họ lên và di chuyển họ là tiền bạc, số phận, và logic tuyến tính. Nhưng thế không có nghĩa là người NY chỉ có khả năng tới lui theo đường thẳng băng: đối lập với địa lý và sơ đồ phố xá là những mê cung của trái tim họ và những xoắn khúc của lòng ruột họ. Chính những vòng xoắn vòng quay của quyền lực và những vòng vèo uốn khúc của thị trường chứng khoán tạo nên những vòng cuộn trong tâm hồn người NY.

Cuối cùng chúng tôi chuyển đến ngôi làng phía Tây. E và gia đình sống trong một khu nhà ngang rất đặc trưng của NY, có sân và lối vào riêng. Những cầu thang cọt kẹt nối ba tầng nhà với tầng hầm, mảnh sân sau hẹp có khóm trúc nhỏ đung đưa. Được xây từ năm 1929, đây là khu nhà cũ nhất phố. Nó vốn được chia thành bốn mươi căn phòng nhỏ như chuồng chim bồ câu để cho thuê, nhưng qua mấy thế hệ người đến ở nay nó đã hoàn toàn lỗi mốt. Vợ chồng E mua lại nó từ mười năm trước và đã cải tạo lại nó theo sở thích của mình. Việc làm đầu tiên của E khi thức dậy mỗi sáng là đổ đầy thức ăn cho chim vào cái máng nhựa rồi đem treo nó vào cái móc trên cây nơi lũ chim bồ câu và chim sẻ đang tranh giành nhau đến ăn. Sau đó anh uống cà phê và đọc tờ NewYorrk Times - đọc say sưa đến sét có đánh cũng chẳng bứt anh ra được. Tiếp đến là một giọng nữ cao từ nhà bên cất lên họa cùng giọng chíu chíp của lũ sẻ. Giọng bà ta cao vút lên như một cái thang bắc lên trời.

Khi vị giám thị Hà Lan mua Đảo Manhattan , đây chỉ là một dải đất rừng chim bay thú gầm. Sau khi người Anh chiếm được nó, một đô đốc của hạm đội Anh đã mua ba trăm mẫu đất để trồng thuốc lá và đến định cư bên sông Hudson . Trước khi mất, ông ta đặt tên cho trang viên của mình là “ Greenwich ”. Năm 1822, trong khi trốn chạy một bệnh dịch, mọi người đã đổ xô đến đây tìm khí hậu mát mẻ, trong lành, và thế là cái xóm nhỏ hẻo lánh dần trở thành một chốn phồn hoa sầm uất. Cuối thế kỷ mười chín, giới nhà giàu ưa theo kịp thời thượng lại chuyển đến một khu phố mới dựng, và thế là Greenwich nằm bên đường bị quên lãng và tàn lụi. Sau đó, các nghệ sĩ và những người nổi loạn đến ở đây, lối sống phóng túng và những tư tưởng phi chính thống của họ làm kinh ngạc những người Italia và Ailen theo đạo di cư đến đây.

Vào một ngày năm 1916, một nhóm thanh niên sau khi uống rượu suốt đêm ở quán bar đã trèo lên đỉnh cổng vòm cung của Quảng trường Washington vừa bắn súng vừa la hét tuyên bố thành lập nước cộng hòa độc lập - New Bohemia. Họ chỉ chịu leo xuống khi ông thị trưởng chấp thuận yêu cầu của họ. Làng Greenwich, hay “xứ Bohemia Nhỏ”, từ đó nổi danh toàn quốc.
Một chiều, E xong việc trên tầng chót nhà xuống. Tôi hỏi anh viết lách thế nào. Anh kể tôi nghe một câu chuyện về Flaubert. Một hôm vào bữa ăn trưa, Flaubert nghỉ việc vào ăn, một vị khách cũng hỏi ông câu như vậy. Ông đáp ông chỉ viết được một dấu phẩy. Đến bữa tối, vị khách lại hỏi, và Flaubert đáp là ông đã qua được cái dấu phẩy rồi.

Hiện nay, người NY là những người rất cô độc - cứ nhìn vào mắt họ là thấy. Nói chung, trừ những người tâm thần ra, không ai nhìn thẳng vào mắt người khác, và ở một nơi mật độ dân số dày đặc như thế này, điều đó có nghĩa là không bị quấy rầy. Chẳng hạn đi xe điện ngầm, để tránh cái nhìn của ai đó, bạn phải đọc báo, nhắm mắt lại nghỉ ngơi, hoặc đơn giản là ngó lơ lên trời như người mộng du vậy. Kỹ năng này phải tập hàng năm trời mới thành thục được. Tất nhiên, nếu có một cặp phụ nữ xinh đẹp hiện ra, cánh đàn ông sẽ đứng cả dậy và cái nhìn lờ đờ của họ sẽ sáng lên như ánh đèn trong sương mù.
Họ không bao giờ nhìn chòng chọc như chuột đồng, mà lén nhìn bằng khóe mắt, trông qua thì mắt chẳng động đậy hay là rất khó thấy chuyển động, dường như muốn nói “Gì vậy? Để tôi yên”.
Giới “quý tộc độc thân” ở NY đặc biệt nhiều. Lý do rất đơn giản: sống độc thân là cách tốt nhất giữ gìn sự cô độc - không vợ không con, chẳng bị ai quấy rầy. Trừ những khi tụ tập bạn bè hay gia đình, còn thì cánh độc thân nói chung thường ăn một mình ở nhà bằng cách gọi điện đến nhà hàng Tàu trong vùng gọi mang thức ăn đến - thịt lợn kho chua ngọt ăn với xúp nóng - hay với phó-mát khô, hoặc gặm mẩu bánh mì mua đã mấy ngày. Vừa ăn họ vừa nhìn vào bốn bức tường giống như con ruồi bị mắc mạng nhện hoảng hốt nhìn quanh; đôi khi họ lầm rầm trò chuyện một mình. Cho nên không có gì ngạc nhiên là phần lớn dân NY đều dùng thuốc chống suy nhược. Nếu hai người cô độc hợp lại với nhau thì chắc chắn có thêm sự phiền toái. Một lần tôi bay từ NY đến Paris . Khi vừa lên máy bay tôi đã thấy ra sự khó xử của mình, vì tôi ngồi giữa một cặp vợ chồng bay từ NY đi. Người phụ nữ ngồi cạnh lối đi, người đàn ông ngồi kề cửa sổ. Tôi lập tức đề nghị đổi chỗ, nhưng họ từ chối. Thoạt đầu tôi nghĩ là tình cảm vợ chồng của họ có trục trặc, và tôi là cái mộc che giữa hai người, nhưng hóa ra không phải thế. Ngược lại, đó là một cặp vợ chồng già rất âu yếm nhau, họ luôn miệng gọi nhau là “anh yêu”, “em yêu”, là “cục cưng”, tới mức tôi nghe mà sởn cả gai ốc. Họ chăm chút nhau, chồng thì lấy dép và sách cho vợ, vợ thì giấu chai rượu vang miễn phí cho chồng để đến Paris uống. Tôi thấy ngạc nhiên hơn nữa là dù bị tôi ngồi chắn giữa nhưng cặp vợ chồng này vẫn thoải mái nói đủ thứ chuyện - từ thời tiết NY đến khách sạn Paris, từ những cuộc xô xát giữa những người bà con của họ đến việc đầu tư vào thị trường chứng khoán. Tôi nén thở, ngả người ra lưng ghế để cho họ có chỗ chuyện trò. Thật cực bất đắc dĩ mới phải ngồi nghe họ nói chuyện thế này, nhưng xâm phạm quyền riêng tư của họ thì không được. Một lần nữa tôi lại đề nghị đổi chỗ nhưng cả hai vẫn dứt khoát phản đối. Mãi sau tôi mới hiểu là họ đã chọn đặt chỗ từ trước để có người làm chứng cho sự cô đơn của họ.

Cô đơn không phù hợp với im lặng. Nó có âm thanh riêng, mà ở NY thì âm thanh này là vô giới hạn. Trước hết là xe cảnh sát, xe cấp cứu, xe cứu hỏa luôn rú còi vang trời để khiến mọi người phải chú ý. Rồi đến lũ chó bị xích giữ suốt ngày, hiếm khi được thả ra phố. Cho nên khi nhìn thấy một con chó lạ là chúng thả sức sủa ầm ĩ. Cũng như đối với nhiều người NY khi muốn bày tỏ điều gì thì họ chỉ có cách là hét to lên. Mồm há to, và vì luôn bị ngắt quãng bởi còi cảnh sát, nên họ buộc phải nuốt mất lời.
         NGÂN XUYÊN dịch
              (từ tiếng Anh World Literature Today,
                   May-August 2005)
(nguồn: TCSH số 219 - 05 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HOÀNG QUỐC HẢI                        Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.

  • JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).

  • PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.

  • PHẠM THỊ CÚC                       KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG                                        Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.

  • THÁI VŨ        Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.

  • PHƯƠNG HÀ                     (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.

  • LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.

  • PHẠM THỊ CÚC                         Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…

  • LÊ VĨNH THÁI                Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.

  • TRƯƠNG ĐÌNH MINH                                 Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                              Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.

  • TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.

  • PHẠM THỊ ANH NGA       Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.

  • TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.

  • CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...

  • NGUYỄN HỮU THÔNG                             Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG                                                Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)

  • PHAN TÂM        (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.