Biến tấu của trăm năm

10:25 17/03/2009
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha

Sinh ngày 7 tháng 10 năm 1949, ngày mà ở châu Âu một bức tường lớn đã được dựng lên để ngăn những con sóng từ Đông Berlin tràn sang Tây Berlin, dường như Nguyễn Thụy Kha cũng là một trong những bức tường nhỏ được số phận dựng lên để nhận về những va đập, sang chấn của kiếp người.

Thế là tôi đã cởi áo lính
Một thanh xuân vô tư
...
Tôi cởi những thập niên máu xanh
đến bao giờ máu tôi đỏ lại
thật đau đớn khi làm lính mà không chết
                                                (Cởi)
Khi em xiết ghì ta
Là khi ta đang mất
Có bàn tay thứ ba
Vẫy vào ta vĩnh biệt
                        (Bàn tay thứ 3)

Tôi gặp Nguyễn Thụy Kha lần đầu vào khoảng những năm 84-85 của thế kỷ trước, qua người bạn trai thân thiết của anh. Lúc đó Nguyễn Thụy Kha còn khá trẻ. Cùng với nhà văn Trần Hoàng Bách, anh ngang qua thành phố miền trung bé nhỏ của tôi ngày ấy còn hiu quạnh như một thị trấn miền núi trong văn Nguyễn Thành Long.

Gầy, cao, gương mặt ít biểu cảm, cặp mắt thông minh nhưng luôn mang cái vẻ nhìn mà không thấy... Nguyễn Thụy Kha đã để lại trong cảm nhận của cô gái mới ngoài hai mươi là tôi lúc bấy giờ, ấn tượng về một tuýp văn sĩ thị thành lớt phớt. Cho đến khi chùm thơ về chuyến đi của anh xuất hiện trên báo.
Có một phần tôi ở đây ký ức
Bạn mang về bụi đường miền Tây
Khi ấy Vinh là anh bộ đội
Quân phục ướt mưa tươi cười lá cây

Có một phần tôi lang thang phố lạ
Em đi ra tận cửa ngập ngừng
Khi ấy Vinh là người yêu nhỏ
Đoá hoa hồng dấu ở sau lưng
                                    (Một nét Vinh)
Râu quai nón ẩn khuất nụ cười
Quán cà phê cây dừa chợt sáng
Rồi rót rượu rồi ngồi im đá tảng
                                     (Khánh ơi)
Em chìm trong tóc xoã
Như bị lãng quên rồi
                       (Chiếc cổng thành)

Một ngày dừng chân, mấy chén rượu nhạt, dăm bảy gương mặt lướt qua... vậy mà hồn anh đã nhận về những vết  hằn thật sâu. Hoá ra ẩn dưới vẻ ngoài thị thành lạnh và kiêu kia là một trái tim đôn hậu, dễ ngân rung, một tâm hồn phóng khoáng, đầy màu sắc hội hoạ.
                        - Thơ với anh là gì vậy?
                        - Là những khám phá vô tận về một thế giới không nhìn thấy trong một thế giới nhìn thấy.

2. Có lẽ ít có nhà thơ nào lại khai rõ lý lịch cuộc đời mình đến thế, trong thơ. Chỉ cần đọc thơ thôi, là đã biết khá rõ về người. Không lựa lọc, dè dữ, Nguyễn Thụy Kha viết thoải mái, đàng hoàng xếp lớp từng khoảnh sống của mình và người đọc nhận ra rất nhanh:
Những dấu vân tay từ đứa con của biển:
Tóc ướt ròng lấp lánh
Ngực phong phanh mang sóng về nhà
                                                (Mẹ cửa biển)
Ta qua ngày đội vôi đội than
Hồn còn nặng nhhững dáng người lối ngõ
Vết dầu loang tiếng còi tàu bờ đá
Sóng ướt mãi vào ta
                                                (Hải Phòng từ xa)
Về Hải Phòng chạm phải tuổi thơ mình
Thằng bé bụi đời lang thang phố xá
Hạt bụi bây giờ đã già đã mong manh quá
Yêu chưa xong mộng mị cũng chưa xong
                                                (Về Hải Phòng)
Những vết xước nơi tâm hồn người lính từng đi qua chiến tranh:
Tôi cô đơn ôm sốt rừng một thuở
Bao tủi mừng còn đầm đìa đường phố
                                                (Cơn sốt ở Sài Gòn)
Đây là lần thứ hai sau lần làm người lính
Anh cầm trong tay một thứ dễ chết người
Ngoe nguẩy năm con rắn
Giữa vỉa hè phe phẩy như sôi

Lặng im anh thương binh ngồi
Như hồi nào phục kích
chỉ có khác súng thì bắn giặc
còn rắn thì để bán thế thôi 
                                    (Người bán rắn ở Văn Miếu)
Cuộc chiến tranh không chịu ra khỏi tôi
Như bụi trong nhà chẳng chổi nào quét sạch
Cả em nữa tận cùng ngóc ngách
                                                (Bụi)
Và còn nữa, tấm hộ chiếu vĩnh viễn của du khách trên xứ sở Thần Ái tình:
Này tóc gió
Này ngực núi
Này thân đường
Những lượn cong đắm mê không cưỡng nổi
                                                (Đêm ướt)
Này nắng mới tay ngà mắt ngọc
Ta ngũ hành năm giác quan em
                                    (Một góc cho mùa hè)
Ta ghé ngực
Đôi khi ta uống
Thấy mình bay trên tóc mùa hè
                                    (Những cánh tay rừng)

Được xếp vào thế hệ những nhà thơ chống Mỹ, nhưng Nguyễn Thụy Kha (cùng với một số tên tuổi khác như Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Anh Ngọc...) lại đạt tới đỉnh cao phong độ vào thời kỳ đất nước đã chấm dứt chiến tranh, chuẩn bị bước vào sự nghiệp đổi mới. Khát vọng của hôm qua và tâm thế ngày hôm nay day trở không nguôi trong những câu thơ của Nguyễn Thụy Kha. Viết nhiều, có chút nồng nàn làm dáng của thị thành, chút ồn ào bốc đồng của lính, những câu thơ của Nguyễn Thụy Kha trào dâng miên man... Người đọc có thể nhận ra dễ dàng thi ảnh độc đáo, những câu thơ có sức quyến rũ, ám gợi đã làm nên cá tính nghệ thuật của anh: “Bất ngờ mưa tóc vàng/miên man xuân/từng sợi châu Âu từng sợi ngô đồng/khuấy anh lên hỗn loạn” (Mưa tóc vàng); “Chiều không em mặt hồ buồn tênh/trái tim anh ai ném lên thềm”; “Anh lúc nào cũng sắp ngã vào em”; “Đồ Sơn đấm thẳng ta một cú/mạnh và phóng túng Đường thi”; “Từ trong ta khẽ một con thuyền lướt/trên lớp lớp sóng nhà”...

Nguyễn Thụy Kha viết khoẻ, viết nhanh, là một thi sĩ không có nhiều tìm tòi về mặt thi pháp nhưng lại gây được ấn tượng mạnh về sức rung cảm của tâm hồn, tinh thần tự do trong ngòi bút và đặc biệt: một khát vọng mãnh liệt muốn hoà mình với đời sống.
-Trong lao động thơ, ý thức của anh hướng về đâu?
-Về cái mới. Về việc phá vỡ sự cân bằng. Cân bằng trong thơ là chết.
-Anh có chịu ảnh hưởng của ai không và thi sĩ nào anh ngưỡng mộ nhất?
-Tôi bị ảnh hưởng bởi Văn Cao và Hoàng Cầm, hai thi sĩ trái ngược nhau. Nhưng tôi ngưỡng mộ Hàn Mặc Tử, thi sĩ đã lê tấm thân tàn tạ vào bất tử.

3. Là sinh viên của trường đại học thông tin liên lạc, mê âm nhạc, Nguyễn Thụy Kha vào bộ đội và trở thành chiến sĩ binh chủng thông tin ngày đất nước chiến tranh. Chính anh là người đã thiết kế và chỉ đạo thi công đường dây trần liên lạc xuyên Trường Sơn để quân ta đánh Buôn Mê Thuột.
  Yêu âm nhạc và thơ ca từ khi còn học phổ thông, nhưng bắt đầu con đường sáng tác bằng ca khúc, năm 1971 Nguyễn Thụy Kha đã có bài hát được phát trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam. Cuộc gặp gỡ với nhà thơ cùng đơn vị sớm thành danh là Anh Ngọc và một vài người nữa đã làm anh gắn bó với thơ hơn.
Từ chiến trường trở về, Nguyễn Thụy Kha vào học khoá đầu của trường Viết văn Nguyễn Du. Năm 1982 bài thơ Những giọt mưa đồng hành của anh được giải cuộc thi thơ báo Văn Nghệ. Năm 1990, Nguyễn Thụy Kha rời khỏi quân ngũ trở về làm một thường dân, vừa sáng tác thơ vừa viết báo, viết kịch bản phim, biên soạn sách âm nhạc... tự giát mỏng mình ra trên từng trang giấy.

Những đòi hỏi trong công việc của một cộng tác viên ăn lương nhiều tờ báo nổi tiếng qua các thời kỳ, cộng với khả năng lao động dồi dào và sự tài hoa thiên phú đã giúp Nguyễn Thụy Kha có được một số lượng tác phẩm khá phong phú bên cạnh những sáng tác thơ. Đó là những bộ phim chân dung và những cuốn văn xuôi bao gồm tiểu thuyết tư liệu, phê bình, tiểu luận, tạp văn.
Sự am hiểu nhiều lĩnh vực nghệ thuật, khả năng sưu tầm và bao quát tư liệu và một bút lực phóng khoáng đã đem lại thành công cho Nguyễn Thụy Kha trên địa hạt này. Những bộ phim về các nhà văn nhà thơ như Nguyễn Bỉnh Khiêm (Cây đại thụ toả bóng 500 năm), Nguyễn Huy Tưởng (Một người Hà Nội), Vũ Trọng Phụng (Chín năm và vĩnh cửu), Hoàng Cầm (Một điệu Kinh Bắc), Yến Lan (Một bến Mi Lăng)... hay những bài viết về Phan Khôi, Nhất Linh, Lê Văn Trương, Đinh Hùng... trong tập Bóng thế kỷ; đặc biệt là một loạt tiểu thuyết tư liệu về các nhạc sĩ được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh như Văn Cao, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, Hoàng Việt, Huy Du... đã giúp người đọc, người xem hiểu rõ hơn về cuộc đời cũng như những cống hiến nghệ thuật của nhiều tên tuổi trong nền văn học nghệ thuật nước nhà. Anh đã được nhận giải thưởng cả trong  nước và quốc tế cho bộ phim về Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nguyễn Thụy Kha nói mình là người có máu giang hồ.
Rượu, bia, gặp gỡ, lang thang, khi làm ăn, khi đàm đạo chuyện chữ nghĩa, rồi tranh cãi, ngợi khen, phán định... đủ cả. Cuối cùng thường là ngồi buồn. Người ít biết về anh có thể cho đó là một cuộc đi hoang và anh đang tiêu đi từng món cuộc đời mình. Còn người biết hơn một chút thì coi đó là một cuộc dấn thân đầy tính mặc định. Sự được thua, còn mất ra sao không rõ, chỉ biết rằng cái hồn thơ vừa lãng đãng mây mưa vừa hùng hồn đau đáu ấy đã được di dưỡng qua thời gian, qua những thăng trầm của cuộc sống:
Cháy thành lửa, tắt thành vuông cỏ
Chín muộn như không thể chín tự nhiên
Những người lính
                 những giọt máu xanh
chảy lặng lẽ trên thân hình bán đảo
                          
(Máu xanh)    
Cay và thơm tinh khiết
ớt xanh
Cái ngọn lửa màu lá biếc
Thiêu đốt anh giống một người tình
                                                (Ớt xanh)
Làm sao quen được hết người mặt đất
Em đi qua em đẹp dửng dưng
Nên anh cứ một mình thiên nhiên
Cứ âm thầm chồi tơ cành biếc
Uống cuộc đời tới chiều tà cạn kiệt
Ngã đã có đêm nâng                                         
                            (Một mình)
Hay nói bằng cái giọng chán đời nhưng thực ra là một người khát sống; tự ném mình vào gió bụi, vào những góc khuất, rồi lại tự mình “lộ sáng”; ky cóp góp nhặt nhưng cũng có lúc tung hê... cứ thế Nguyễn Thụy Kha sống và viết. Và những câu thơ của anh đã có được một hơi thở thật phóng khoáng, trẻ trung, giàu sinh lực.
                        - Một câu thơ thật hàm súc về bản thân, thưa anh?
                        - Một cái đáy không thể chạm tới.
   Hà Nội, ngày 31tháng 3 năm 2005
   N.L.N

(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.