HỒ TRẦN
Bàn thờ nhà anh được che tấm vải đỏ xẻ chính giữa. Tấm vải cũ mèm bụi bám, chuyển qua màu sậm.
Minh họa: Nhím
Lúc tôi đang lau tấm bài vị cũng được trùm mảnh vải đỏ phía bên trái bàn thờ thì mẹ anh ở chợ về. Bà thả phịch làn đồ cúng gồm thức ăn, bông ba hoa quả chạy xộc vô: “Ôi con ơi... Đừng!” Tôi hơi chợn, quay lại thấy bộ mặt thất sắc của mẹ chồng tương lai. Không đợi tôi phản ứng, bà cầm lấy bài vị từ tay tôi đặt lại chỗ cũ, trùm ngay mảnh vải đỏ lại.
Tôi lui liền, xách làn ra giếng mở bó bông cúc rửa sạch, suy nghĩ. Lẽ nào mẹ chồng tương lai không tin mình? Lẽ nào tôi chưa được thừa nhận là thành viên trong gia đình anh nên không được phép lau bài vị và các thứ trên ban thờ? Anh đang chạy xe lên phố lấy nhẫn đính hôn. Ngót vui, tôi ngóng cổ chờ anh về. Tôi sẽ lôi anh tới góc khuất trong ngôi nhà thâm u này để có được lời giải thích về hành động của mẹ anh. Sực nhớ… sao tôi không ngó qua dòng chữ trên bài vị.
Tôi - cử nhân Hán học, thử việc được gần năm thì “dính” vào anh - trưởng phòng quản lý di sản, tuổi hơn kha khá. Đơn giản là chúng tôi sắp làm lễ đính hôn. Cưới trong năm. Tôi yêu cầu anh việc nhờ thầy xem ngày giờ... Cũng hơi bất ngờ, anh đồng ý. Hôm nay giỗ cha anh, và tôi đến phụ giúp. Mẹ anh mời gia đình bên ngoại cùng một ông cao niên trong họ; còn nội anh ở trên phố, xa nên không tiện mời.
Cũng phải đêm, về phố, tôi mới chất vấn anh.
- Là bí mật gia đình. - Anh lên giọng, mãi mới dịu lại: Bây giờ nó không hẳn bí mật nữa, nhưng với mẹ anh vẫn là bí mật.
- Tại sao cơ chứ?
- Bởi ông Tổ của anh - một trong những người có công lớn nhất trong việc đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, nhưng lại chính là người lãnh án dưới thời vua Gia Long.
Sợ hãi thoáng qua mặt tôi.
*
Anh bảo mộ của Ngài xa lắm, ở tận làng Dạ Lê. Ngài lập nên làng nên sau này con dân của làng xây lại mộ cho Ngài; còn hồi Ngài là tội phạm triều đình, bị bức tử, mộ phần chắc chẳng khác thường dân.
Sáng sớm anh dẫn tôi lên đồi Thiên An thăm mộ mẹ của Ngài. Tôi cũng muốn nhẹ lòng trước lúc chúng tôi đi xem ngày đính hôn... Mẹ Ngài nằm cách đường cái mới mở khoảng ba chục mét. Nhất sơn nhất huyệt. Hai bên ruộng đồng tiếp giáp rồi đến núi che chắn, trước có nhánh sông (nay đã khô nước); ngọn Thiên Thai như cái bình phong thơ mộng chắn khí độc. Đây là thế tả phù hữu bật, tiền đinh hậu chẫm tôi từng biết khi tiếp cận với các công trình nghiên cứu về lăng mộ vua chúa.
Chữ hiếu nặng tựa thái sơn. Ngôi nhà kiếp sau dành cho mẹ Ngài là tòa kiến trúc tuyệt tác, độc bản. Lăng gồm hai vòng tường dày ôm lấy khuôn tĩnh hình voi phục. Hai trụ cổng phía trước, trên cùng xoắn vỏ ốc thanh thoát có kỳ và lân. Kỳ tượng trương cho bố, lân tượng trưng cho mẹ Ngài. Kỳ đứng ở trên trụ phải (nhìn từ ngoài vào), lân đứng trên trụ trái. Điều khiến tôi chú ý: phía dưới ngực lân mẹ có lân con thò ra cái đầu, mặt hơi ngước vui vui. Tình mẫu tử. Tôi xem nhiều tượng lân ở các đền đài lăng tẩm, miếu mạo, lăng mộ, nhưng đây là lần đầu thấy lân mẹ cưu mang lân con với một tâm thế mênh mông giữa mây núi chập chùng.
Tôi đứng ngắm rất lâu mẹ con nhà lân. Anh kéo tôi tránh nắng ở chân tường bao lăng, kể:
- Lúc vua Gia Long tìm được nơi xây lăng ở đồi Thiên Thọ; Ngài vốn người gốc Nam Bộ phóng khoáng chân thành, bẩm vua:
“Tâu Bệ hạ, địa thế đây đẹp thật, nhưng đất không đẹp bằng đất mộ của mẹ hạ thần”.
Vua hỏi:
“Đất mộ mẹ của ngươi sao?”
“Tâu, đất mộ mẹ của hạ thần đào lên toàn màu vàng, không có lấy một hạt đen”.
Lúc đó có Nguyễn Phúc Đảm, em cùng cha khác mẹ với Hoàng tử Cảnh cũng đứng hầu cạnh vua.
Nguyễn Phúc Cảnh là hoàng tử An nam đầu tiên được hấp thụ tư tưởng phương Tây trong quãng thời gian làm con tin. Cảnh cùng Ngài và tướng Lê Văn Duyệt bôn ba thế giới, ủng hộ cái mới, đề nghị với Gia Long truyền ngôi cho Mỷ Đường (con của Cảnh), hơn nữa đây mới chính là cháu đích tôn, song không được chấp thuận. Số quan lại nặng lòng với Nho học quyết đưa Miên Tông Đảm lên ngôi. Thực hiện lời “rỉ tai” của Cảnh với Ngài và tướng Duyệt có nguy cơ không thành.
Lúc cùng thân tín bàn “nhân sự” truyền ngôi, vua Gia Long hướng về Ngài mà rằng:
“Xưa nay cha nợ thì đòi con chứ ai đến hỏi cháu bao giờ”.
Ngài im lặng. Sự im lặng có hai ý...
Bây giờ nghe Ngài nói về đất táng, Đảm nhân cơ hội hạ bệ đối thủ:
“Nếu đất mộ mẹ ngươi tốt vậy, sao không nhường cho vua?”
Gia Long ngoái nhìn người từng cùng mình bôn tẩu trước cuộc truy sát của quân Tây Sơn, nghi ngại.
Rất bình tĩnh, Ngài không nhìn Đảm.
“Bẩm, đất huyệt mẹ thần tốt thật song thường bị sét đánh ạ”.
Ngoài một vị quan, trên hết Ngài vẫn là bạn, là một cánh tay của vua Gia Long. Tiếng nói của Ngài rất có thể xoay chuyển ý định của vua. Đảm mới bộ cung kính cúi mình chắp tay bái vua cha, song nghiêng đầu về Ngài.
“Mẹ ngươi dân thường, còn vua là thiên tử. Trời không giáng sét vào mồ thiên tử bao giờ”.
Vua Gia Long ngẫm nghĩ, cũng không nói lại, thẳng bước. Đám hầu nín lặng theo vua về cung.
*
Tôi ngủ trong căn phòng thuê. Khá xa anh. Anh cũng trọ, chỗ rộng hơn, giường dành cho hai người. Chưa cưới nhau, có giấy kết hôn rồi, chúng tôi đã cuộc sống vợ chồng. Nhưng đêm nay tôi ngủ riêng. Có thể là một sai lầm, đúng hơn: một đêm sai lầm. Trước nhất vì tôi không ngủ được. Những khuôn mặt cứ chợp chờn. Đầu tiên là khuôn mặt của mẹ anh. (Đến giờ này tôi mới nhận diện “âm bản” khuôn mặt ấy lúc bà xộc vào và hành động chính xác là giật tấm bài vị từ tay tôi). Tiếp đến là khuôn mặt không hình dạng từ tấm bài vị bốc lên. Rồi nữa, khuôn mặt một mệ già như quả bóng bay non hơi là tà trên mặt đất. Nó dẫn tôi đến bên mộ của mẹ Ngài...
Tôi trở dậy bật điện. Không muốn tới anh khẩn cầu giấc ngủ, tôi kê gối sau lưng ngồi đầu giường, đặt laptop lên đùi mở Bách khoa toàn thư Wikipedia xem lại vụ án của gần hai thế kỷ trước.
“Năm Ất Hợi 1815, người con trưởng của ông là Nguyễn Văn Thuyên cũng chính là phò mã của vua Gia Long đỗ hương cống, vốn người hâm mộ văn chương, thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên có làm một bài thơ tặng ông, trong đó 2 câu cuối: “Thư hồi được đắc Sơn trung tể, Tá ngã kinh-luân chuyển hóa ky.” (Sơn tể phen này dù gặp gỡ/ Giúp nhau xoay đổi hội cơ này). Một số người vốn có tị hiềm với ông dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn”.
- Em nghĩ chuyện đất mộ mới là nguyên nhân cốt lõi khiến Ngài bị ép tội, còn vụ án bài thơ chỉ là cái cớ, giọt nước tràn ly?
Anh khẽ gật đầu, không bình luận.
- ...và đường nứt ở mộ mẹ Ngài đây, chính là “điềm báo” cho lối ngoặt cuộc đời của Tiền quân.
Đường nứt xỏ được nắm tay vào. Anh bảo theo hồ sơ khoa học lưu ở Sở, do địa chấn... đường nứt xuất phát từ Truồi phóng tới đồi Thiên An này.
Tôi tin tâm linh hơn, song vẫn bình lặng nghe lời anh nói. Có sự ngẫu nhiên nào đường nứt lại chẻ đúng giữa khuôn tĩnh mộ mẹ Ngài, nghĩa là nứt đúng vị trí của cái đuôi con voi phục, gần tới tâm huyệt thì ngoặt. Lối nứt ngoặt đó phải chăng là sự kiện vua Tự Đức truy xét công trạng, lại chiếu giải oan cho Ngài vào năm Mậu Thìn 1868? Nên từ đó, hơn trăm năm qua đường nứt không dài và lớn thêm.
- Quá muộn! - Anh lắc đầu, nói nhỏ: Ngay cả khi lệnh giải oan được ban, thân nhân của Ngài vẫn còn run sợ. Một người đại diện đến nhận, nhận rồi biến mất tăm luôn, thân tộc họ hàng không có cơ hội xem lệnh giải oan cho ông tổ của mình. Ai cũng đinh ninh hay lệnh đó truyền tụng vẩn vơ, còn án tru di của vua Gia Long gán cho Ngài còn treo...
- Em lại nghĩ khác. Án tru di là án “ảo”. Vua Gia Long ký án nhưng mật lệnh bộ Hình không thi hành, (dĩ nhiên Ngài không được biết). Đó là nghĩa cử cao đẹp cuối cùng vua Gia Long dành cho người bạn đã tháp tùng mình tránh tử họa trước đây. Cho đến lúc Ngài buộc phải uống thuốc độc trong ngục vào năm Đinh Sửu (1817), vua Gia Long mới thấm thía nỗi đau mất người bạn quý từng “đem tâm lực ra mà gây dựng nên một dải quan hà”.
- Có lý. - Lần này anh như thốt lên, ngước nhìn trời mây - Chỉ là... nó không được sử chép. Nhưng ta cũng có thể đặt một giả thiết khác, làm gạch trung gian giữa thực và... hư.
- Anh thử xem.
- Án dành cho Ngài chỉ là tự xử. Ngài vẫn sợ... án tru di... Đằng nào Ngài cũng chết nhưng liên lụy đến gia đình họ tộc thì dẫu chết trăm ngàn lần Ngài cũng không chuộc được nỗi đau.
Việc đầu tiên: Ngài đuổi hết vợ con, sạch bóng. (Có tài liệu cho rằng Ngài có trên chục người vợ. Chả là lúc phò Nguyễn Ánh trốn quân Tây Sơn, Ngài ghé vào đâu lấy vợ đó, mục đích nhằm che giấu thân phận).
Việc thứ hai: Ngài đốt gia phả, để nếu án tru di có giáng, thân quyến của Ngài ít nhiều có cơ may sống sót.
*
Bây giờ thì tôi hiểu vì sao anh ủng hộ ý tưởng nhờ thầy xem ngày đính hôn và “nhìn về tương lai một chút”. Ông thầy bói (kiêm thầy cúng) mà anh dẫn tôi tới vốn chú họ của anh, hậu duệ đời thứ 6 của Ngài.
Chúng tôi vào đến sân, anh đánh tiếng “chào chú” rõ to. Ông thầy bói đang mở nắp hộp bằng thép hình tròn, ngưng tay nhìn ra, cứ như mắt ông chưa hề mù.
- Vâng. Chào chú.
- Dạ, hôm nay bọn cháu tới xem ngày như đã thông tin với chú trước.
- Vâng. Mời chú và o vào nhà.
Tôi ngồi vào chiếc ghế đẩu bằng gỗ cũ, đen và bẩn, đánh tiếng kẻo tay ông loạng quạng rờ phải. Nước được rót ra ly. Ông tới góc nhà lấy chiếu trải, bày đồ bói, rồi dùng bút viết rất nhanh những chữ Hán lên tờ giấy kẻ ô, đúng chóc hàng lối. Mắt đã mù vẫn nhắm. Xong. Ông bảo: “Phiền cô ra sân hóng mát, tui có chuyện muốn bàn với chú”… Tôi đứng dậy, chả cần giả bộ vui với anh, với ông lại càng không cần thiết.
Ông nói nhỏ:
- O của chú đã có bầu, nhưng cái thai... lạ lắm. Tướng o khó sinh!
Nhưng ông lại thành thực an ủi: “Đó chỉ là… bói. Một hiện tượng áp dụng cho biết bao người cùng tuổi?”
Anh giấu biệt tôi chuyện này. Tôi không thể gỡ khuôn mặt nhạt thần sắc của anh khỏi mắt mình. Cứ như anh phát hiện một nhược điểm lớn của tôi lại không muốn nói.
Đêm kinh hoàng. Tôi đã ngủ, bỗng có người tới lay. Mà tôi đâu có dậy nổi. Người ấy mặc blu trắng đứng bên giường. Làm gì! Tôi đâu phải bệnh nhân. Tôi đang nằm trong phòng mình chứ đâu phải ở bệnh viện. (Hình ảnh trượt đi một đoạn phim trắng, rồi đến cảnh): con lân ở mộ mẹ Ngài chồm lên ngực tôi. Nó vẫn ôm đứa con dưới ngực, cứ thế nhún đạp lên thai non trong bụng tôi...
Chưa sáng hẳn, anh chạy xe tới. Tôi vẫn nằm nguyên trên giường như một bệnh nhân. Buồn. Sực nhớ câu hỏi chưa có dịp phát ra: “Họ hàng nhà anh xưng hô hay nhỉ. Ai cũng chú với nhau là sao?”
Anh chộp được câu hỏi đã soạn sẵn đáp án:
- Gia phả Ngài đã đốt, giữa anh và ông chú họ đó thứ bậc như thế nào không rõ nên ai cũng cứ phải xưng “chú” với nhau kẻo phạm thượng…
Tôi thật khó tiếp nhận lời anh. Có nỗi băn khoăn dâng lên từ ngõ ngách tâm thức. Anh là một cán bộ quản lý di sản, từng viết nhiều bài nghiên cứu giá trị sao lại không hề đả động đến góc khuất cuộc đời của ông tổ mình. Sợ hãi? Anh sợ mình là chít chắt của vị quan từng lãnh án tru di, khi anh đang ở ngay trong lòng Kinh đô một thời? Cho dù chế độ quân chủ quá vãng, anh vẫn thụt cổ trong mai rùa. Anh sợ cái ghế đang ngồi ở cơ quan quản lý di sản lung lay…
Nhìn lại anh, thật nguy hiểm, tôi thấy sao… xa lạ.
- Anh hèn!
Câu nói phụt khỏi miệng tôi như bị vô thức sai khiến, làm anh rụng mất hồn. Thay vì đánh tôi bằng sức mạnh “trả thù”, anh thõng tay xuống, rát rúa mặt mày. Nhưng, giá anh bợp vào má tôi rồi tuôn ra một tràng xỉ vả, còn hơn. Tôi thóp bụng. Giá đứa trẻ đang lớn dần trong tôi là một chiếc ba lô, tôi sẽ cởi phăng đặt lên giường “trả” lại anh. Tôi bước khỏi đời anh - một mẫu người hèn nhát - với tôi.
Ra đường. Chợt tôi khựng lại. Anh không còn trong tâm trí tôi, khôi hài, chính lúc đó ngôi mộ của mẹ Ngài hiện lên với tấm bia bị đục mất tước hầu. Chú lân con dưới ngực lân mẹ như chính nó đang cựa quậy trong bụng mình.
*
Non tháng trước ngày cưới, anh hẹn gặp tôi qua tin nhắn, tại nhà anh trên phố. Thực sự tôi không buồn nhớ đến cưới xin, mặc dầu cũng không nghĩ đến chuyện hủy.
Tôi sẽ không gặp anh nếu đêm trước không mơ thấy mẹ của Ngài. Bà không trực tiếp nói chuyện với tôi, chỉ là vô tình tôi nghe thấy tiếng Bà. Vẫn khung cảnh ngồi tránh nắng cùng anh dưới chân tường của lăng. Nghe tiếng gọi, tôi đứng dậy ngó lui, thấy Bà “mọc” lên từ đường nứt của mộ. “Ta chỉ ước nấm mộ đơn sơ... còn hơn cái lăng to đẹp như thế này không người hương khói”. Rồi hình Bà mỏng dần, mờ dần, là là bay đến nhập vào lân mẹ trên trụ chính của lăng...
Anh đón tôi rất thường. Thái độ ấy lại hợp. Tôi không ngồi ở giường như bao lần trước. Anh mở tủ lạnh lấy một ly nước chanh pha sẵn. Thật sẽ không ai tin, trong đầu tôi thoáng nghĩ anh bỏ thuốc mê… Tôi nhấp, đặt xuống, lại nâng lên uống cạn. Anh ngồi đối diện, đan hai tay trên mặt bàn.
- Có điều này em phải biết…
Tôi không phải nhìn, mà là quan sát anh từng chi tiết. Môi anh run run xúc động.
- Anh đã tìm ra cuốn gia phả… Nó không bị đốt. Ngẫu nhiên, mẹ anh bê cái bát nhang xuống…
Tôi nhớ rõ cái bát nhang ở ngôi nhà xưa mẹ anh tiếp quản.
- Mẹ lau chùi, cái lư hương gỗ đó mục, rã đáy, mới hay ở dưới có một thanh ngang, tròn. Nó chính là ống đựng cuốn gia phả.
Anh nói không nhanh song các câu dính chặt vào nhau, cứ như không muốn tôi xen vào.
- ...đã tính gọi ngay cho em… Suốt tuần nay anh dịch không sót chữ nào… Anh rà thân quyến… Có lẽ do Ngài quá nhiều vợ… Em ạ… thực ra… chúng ta...
- Sao?
- Thực ra… chúng ta không thể... cưới.
Tôi vẫn ngồi nhưng cảm giác hồn bật dậy.
- Nghĩa là chúng ta đã... loạn?
Tôi không chờ cái gật đầu từ anh. Muốn tan chảy và rục xuống như ngọn nến. Tôi lao ra cửa.
- ...sẽ không ai biết tội lỗi vô tình chúng ta mang đâu em! - Anh gọi với theo.
Đứa bé trong bụng tôi đạp mạnh. Tôi gục xuống ở cổng. Tối sầm. Mặt trời sáng quắc. Quầng đỏ trong mắt. Tuyến lệ kiệt khô. Lửa. Tôi rướn người gào lên. Lửa. Anh ném cuốn gia phả vào lửa. Báu vật truyền đời cháy rực. Lửa liếm vào những dòng tên. Tôi thấy mình trong vùng lửa kia đang rướn tung đứa trẻ ra xa trước lúc lửa cháy đến dòng tên tôi tên anh lồng trong trái tim đỏ màu huyết thống.
(SHSDB27/12-2017)
BẠCH NHẬT PHƯƠNGNgày ấy, vào năm 1981!Rời phiên tòa ra về, thiếu phụ cảm thấy quãng đời còn lại như một cuộc thách đố. Nàng không buồn phiền nhiều mà cảm thấy bực bội và vô cùng lo lắng. Nàng bực vì thái độ nhỏ nhen của người đàn ông mà nàng đã từng là vợ trong suốt 13 năm qua. Nàng lo lắng vì 3 đứa con của nàng từ nay trông cậy vào chỉ một mình nàng!
NHẤT LÂMTrời về tối lúc tạnh lúc mưa, lại có gió nên càng mịt mờ như khuya khoắt, nhà nào cũng ăn cơm lúc chập choạng, bởi mưa gió chẳng biết làm gì. Tháng mười chưa cười đã tối. Mùa mưa miền Trung vốn tự cổ xưa đã não nề, những năm chiến tranh càng buồn hơn.
HOÀNG QUỐC HẢI Truyện ngắn lịch sửNăm Nhâm Thân (1392) mùa hạ, thượng hoàng Trần Nghệ Tông xuống chiếu “CẦU LỜI NÓI THẲNG”Thường trong nước mỗi khi có đại sự, nhà vua ban chiếu cầu hiền. Mục đích tìm người tài cho nước.
KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.
CAO HẠNHTôi sinh ra ở làng quê, lớn lên cũng ở làng quê. Tôi là hạt máu đỏ rơi xuống bùn đất mọc lên một thằng người cùng với ngọn cỏ lá rau, cây lúa và những sinh linh khác. Tôi cùng chịu đựng chia xẻ với chúng ngọn gió Lào cát trắng và những trận mưa dầm dề của xứ miền Trung khắc nghiệt.
HỒ ANH THÁI Tác giả thấy cần phải tóm tắt chuyện cô bé quàng khăn đỏ trước, rồi mới kể tiếp phần hậu cô bé quàng khăn đỏ. Con sói đến lừa bà cô bé, nuốt sống bà, rồi mặc váy áo của bà, trùm khăn giả vờ làm bà. Cô bé về nhà, thấy bà rởm mà không biết, cứ hỏi vớ hỏi vẩn sao tai bà to thế, sao mắt bà to thế, sao mồm bà to thế. Sốt ruột. Con sói bèn nuốt chửng luôn cô bé. Nhưng rồi quần chúng tiến bộ tập hợp lại đấu tranh, con sói phải nôn cả bà lẫn cháu ra, hứa cải tà quy chính. Từ đây bắt đầu phần hậu cô bé quàng khăn đỏ…
PHẠM XUÂN PHỤNGHọ như không còn trẻ. Người lớn tuổi hơn có khuôn mặt thanh thản vì đã giãn mềm những nếp nhăn. Người trẻ tuổi khuôn mặt nhuốm già bởi màu từng trải và những nét khắc chán chường.
MAI HUY THUẬTNằm cuộn tròn trong cái rọ lợn Cuội mới có thì giờ ngẫm nghĩ về cái thân phận của mình. Cả cuộc đời dối trá, lừa gạt bây giờ bị tù hãm sau mấy cái nan tre tưởng như mong manh thế mà càng cựa quậy càng trầy da rách áo, không thể nào thoát được.
NGUYỄN VĂN VINH Thường thường, mỗi sớm tôi và các bạn gặp nhau ở quán cà phê vỉa hè. Ngồi vệ đường, không tiếng nhạc quấy phá phút tĩnh tâm để ngẫm ngợi sự đời, quả thú vị! Tôi biết các loại quán đều tiêu phí thời giờ của mình, nhưng quán cà phê ít tốn, ít nguy hiểm hơn quán bia ôm và các toan tính, bon chen trong vòng danh lợi gươm đao nên tôi không bỏ uống cà phê buổi sáng, ngày mình giết một tí, lại được chuyện vãn với nhau: nào thời sự, tin tức trên trời dưới biển, cũng vui!
LINH CHIKhi chỉ mới là giọt máu, sự kết hợp của hai nhiễm sắc thể XY bám vào dạ con của mẹ, nó đã không được công nhận. Chào đời, mẹ con nó ở với ông bà ngoại cùng các cậu, các dì cho đến năm nó tròn bảy tuổi. Nhà ngoại nó ở ven triền núi của vùng đồi miền trung du hẻo lánh độ chừng vài ba chục nóc nhà rải rác trên mấy quả đồi đầy hoa sim, hoa mua tím. Chiều chiều nó thường hay tha thẩn trước sân nhà ngắm nhìn những đàn chim bay về tổ, thả hồn theo những đám mây màu cánh vạc đùn lên phía sau dãy núi đối diện nhà ngoại và tưởng tượng, ước ao…
TRẦN CHINH VŨAnh nghĩ là mình có thể ngủ được trong đêm nay - ngủ ngon là khác nữa - Đêm qua anh đã ít ngủ rồi - Hơn nữa, cùng với cậu em trai anh lại vừa có cuộc đi chơi đêm ở công viên Đầm Sen, đến muộn mới về. Vậy mà cho đến lúc này, đã qua nửa đêm được ít phút, mắt anh vẫn cứ trơ ra, cứ như thể nó chưa biết khép lại bao giờ.
ĐÔNG TRIỀUMười hai giờ đêm.Tôi bước ra khỏi rào lưới sắt còn ngoảnh lại nhìn căn trọ, nơi cửa sổ vẫn phụt ra luồng sáng trắng bởi đèn điện. Tất cả đã im lặng. Tiếng cót két của đôi cánh cửa gỗ mà người thiếu phụ vừa khép lại hòa vào nhịp rơi lộp độp của những giọt sương trên lá, tiếng côn trùng trỗi lên cùng thanh âm mà con chim cú đâu đây vẫn bỏ tiếng rúc đều đều nghe rợn người.
PHẠM NGỌC TÚY“Ngày...tháng...nămDòng nhắn tin trên báo cho em biết rằng em đã tìm thấy anh. Cuối cùng thì chúng mình cũng nhận ra nhau. Anh thân yêu. Hôm nay trời không mưa và không nắng. Từ cửa phòng em nhòm ra có một cây trạng nguyên. Cây này nhô lên cao giữa khoảng trời xanh hiếm hoi. Những chiếc lá đến mùa, đỏ thắm màu xác pháo. Nó là cây hoa độc nhất ngoài cửa phòng em.
NGUYỄN BẢNHắn đến tôi, mặt thẫn thờ ngơ ngác như người vừa mất của. Tôi hỏi ngay:- Có chuyện gì vậy?- Không, không có chuyện gì.
ĐÔNG LA Sài Gòn mùa mưa, trời lúc nào cũng âm u. Những tán cây sẫm hơn, không khí nóng rát của những tháng cuối mùa khô đã được làm nguội lại, dịu mát. Mấy ngôi nhà cao lênh khênh dường như chỉ cần kiễng chân lên một chút là có thể gội đầu được trong những đám mây sũng nước, là là bay trên đầu.
ĐÀO PHONG LAN Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.
MAI HUY THUẬTCon tàu Thống nhất nhả Văn xuống ga Huế vào một trưa mưa tầm tã khiến Văn chợt thấm thía một câu thơ Tố Hữu:...“ Nỗi niềm chi rứa Huế ơiMà mưa xối xả trắng trời Thừa Thiên?”...
NGUYỄN VĂN THANHSau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi không ngờ được Ngọ hỏi làm vợ. Không giống như những cô dâu khác, ngày tôi về nhà chồng có dắt theo một đứa con riêng. Tên nó là Hòa. Ngọ rất thương yêu hai mẹ con tôi. Không có gì đáng trách anh ấy dù cuộc hôn nhân của chúng tôi không bình thường.
NGUYỄN LÊ VÂN KHÁNHTôi xa nhà trọ học thành phố khác. Dịp nghỉ ngắn ngày không về nhà được, tôi đón xe về thị trấn men con nước nhánh sông lớn về nhà ngoại. Từ ngoài ngõ con Bơ sủa váng, Vinh chạy ra ôm bụi chè tàu nơi đầu bến nước, gọi mạ ơi, Sương về.
NGUYỄN HÙNG SƠN Một buổi chiều cuối tháng ba trong lúc ngồi bón cháo cho chồng, bà Loan nhận thấy hôm nay Hào, chồng bà có những biểu hiện khác thường. Ông có vẻ suy nghĩ, ăn uống uể oải.