Bây giờ nơi chốn xa xôi

15:17 10/07/2008
UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).


Sau cái nhói đau của trái tim, ta nghe rõ tiếng thở dài của Thiếu Anh, của một người đằng đẵng xa quê, mà lúc nào tâm hồn mình cũng hướng về: Bây giờ nơi chốn xa xôi / Nhớ em, nhớ Huế, nhớ trời quê hương”.
Hình ảnh quê hương lúc nào cũng thấp thoáng trong ký ức mình, đó là tâm trạng của những người yêu quê hương lắm mà phải xa. Chính vì vậy, khi những người đồng hương cùng cảnh ngộ gặp nhau thì ríu rít hẳn lên. Hồ Đắc Thiếu Anh cũng ở trong cảnh ngộ ấy, nên viết được những câu thơ trĩu nặng: Người Huế gặp nhau líu lo giọng Huế / Giành nhau kể chuyện quê nhà / Lời nồng nàn hương chanh hương bưởi / Lòng sương thu trĩu nặng tiếng ầu ơ. (Hương vị cỏ)
Âm hưởng của những cuộc gặp nhau líu lo giọng Huế là hình ảnh quê hương cứ hiện mãi trong lòng. Giống như có cái cớ để thức dậy nỗi nhớ mỗi lúc một da diết.
Và Thiếu Anh nhớ tà áo dài thiếu nữ Huế:  Huế ơi từ ấy chia xa / Xin cho tìm lại đôi tà áo xưa.
Tất cả thiếu nữ Huế đến trường đều mặc áo dài trắng thướt tha. Bầy nữ sinh đi trên đường, giống như một bầy thiên nga, làm cho đường phố rực rỡ hẳn lên. Cho đến bây giờ tà áo dài ấy vẫn được coi là một “đặc sản” của Huế. Bầy thiếu nữ xưa ấy đi học, thường qua đò ở bến Thừa Phủ:
Bến đò xưa, bến đò xưa
Thuyền qua Thừa Phủ còn chờ đợi ai?

Trong nỗi nhớ, ta thấy Thiếu Anh vẫn nuối tiếc, hình ảnh con đò chờ khách vẫn làm cho nhà thơ thẫn thờ, tưởng như không thể dứt lòng mình ra được: Xin cho trăng mộng đêm dài / Biết đâu Thành Nội dấu hài còn nguyên / Biết đâu Vĩ Dạ cau nghiêng / Tóc thề đợi lá trầu duyên lỡ làng. (Bóng chiều sương)
Chỉ bằng sáu câu thơ, ta cảm thấy cái thảng thốt của Thiếu Anh từ bến đò đến dấu hài trong Thành Nội, từ dáng cau, cho tới mái tóc thề thiếu nữ. Không có những kỷ niệm da diết, không thể viết nổi những câu thơ có hồn như vậy. Hèn chi có lần tôi gặp Thiếu Anh ở Huế, nàng thơ không phóng xe ào ào trên đường phố, mà mặc áo dài tím, đội nón bài thơ, tha thẩn bên bờ sông Hương, suốt từ bến Thừa Phủ, qua nhà Kèn, đến Vĩ Dạ. Tưởng như người thiếu nữ ấy đang mất một cái gì và đang chăm chú đi tìm. Đọc thơ của Hồ Đắc Thiếu Anh mới rõ, nàng thơ đang đi tìm những kỷ niệm xưa. Tôi trân trọng những kỷ niệm ấy, nên dù lúc đó rất gần Thiếu Anh mà không dám gọi, sợ làm đứt đoạn suy nghĩ của nhà thơ.
Huế rất dễ bị cám dỗ, nên hầu như nhà thơ nào qua Huế cũng để lại một bài thơ. Người Huế hầu như ai cũng thuộc một câu thơ của Thu Bồn: Con sông dùng dằng con sông không chảy, Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu. Thiếu Anh lại là một người Huế đích thực thì làm sao không rung động trước một dòng sông, một bến đò, một điệu hát trên con sông thơ mộng này. Thiếu Anh đã viết đúng tâm trạng mình:
Nhặt từng sợi nhớ đi qua
Hồi chuông chùa cũ ngân nga buốt lòng
                                     (Chiếc dằm thơ).
Nỗi nhớ nhất của Thiếu Anh là nỗi nhớ về người mẹ, với mảnh vườn mẹ đã chắt chiu nuôi mình lớn khôn.
Thiếu Anh cất tiếng gọi “Mẹ ơi”, phá cách khổ thơ 4 câu rất tài:
Mẹ ơi
Vườn chuối nhà mình trổ buồng chưa
Mẹ có làm thân chuối muối dưa
Bên ni trời lạnh thèm da diết
 Nồi cá kho tiêu mẹ đang chờ
.
Nhớ mẹ, nhớ quê, nên nơi đất khách quê người, Thiếu Anh cũng tậu được một miếng đất làm một mảnh vườn riêng.
Mỗi cây trong vườn là một kỷ niệm. Đây là mảnh vườn của Thiếu Anh:
Mẹ ơi
Vườn con có giăng giậu mồng tơi
Dặm thêm bồ ngót lá xanh tươi
Ước chi gởi được về bên nớ
Một bát canh rau nửa phương trời
.
Có rau cỏ quê nhà mà Thiếu Anh đem giống từ mảnh vườn mẹ, làm cho ấm lại nỗi cô đơn tha phương, và mỗi miếng ăn là một lần nhắc nhở tình mẹ nơi phương trời xa:
Mẹ ơi
Vườn con giàn mướp lại đơm hoa
Đất khách con gieo hạt quê nhà
Bữa cơm ấm áp hương tình mẹ
Cho đỡ nhói lòng nơi phương xa
.
                        (Hương xa)
Không biết được mấy người xa quê, đem giống nơi vườn mẹ trồng nơi mình ở như Thiếu Anh để mỗi lần nhìn thấy bóng cây, mỗi bữa ăn rau quê nhà làm lòng mình ấm lại.
Đọc thơ của Thiếu Anh viết ở chốn xa xôi, tôi cảm thấy như đọc những trang nhật ký từng ngày, từng ngày Thiếu Anh trải lòng mình ra trang giấy. Thiếu Anh đã rút ruột mình ra để làm thơ, tâm trạng của chính nhà thơ đã đủ rung động thành thơ rồi. Nếu không, làm sao viết nổi câu thơ đầy xúc động này:
Con từ xuôi ngược đến chừ
Vẫn còn ấp ủ lời ru ngọt ngào
.
Đó chẳng phải là tiếng lòng đó sao.
Lần Thiếu Anh về thăm quê, lại đúng vào một ngày mưa. Khác với mưa ở nhiều nơi, mưa Huế rất buồn. Nguyễn Bính đến Huế gặp mưa, ông đã viết về cảnh mưa buồn ấy: Trời mưa ở Huế sao buồn thế/ Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày/ Hôm qua còn sót hai đồng bạc, hai đứa bàn nhau uống rượu say/ Mái tranh, nón lá mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay. Nhưng chiếu mưa của Thiếu Anh lại rất ấm:
Cảm ơn một chiều mưa
Mưa như cầm chĩnh đổ suốt ngày
Huế đắm chìm trong khói mưa bay
Lòng tím hoa sim một lần Vĩ Dạ
Sóng sánh tách cà phê
Chiều mưa như phép lạ
Rót ấm vào tim người xa về
.
            (Cám ơn một chiều mưa)
Phải là một người yêu quê hương lắm, nên phút trở về mới có được tình cảm ấy.
Và khí nhìn nét cong của bờ sông Hương. Thiếu Anh như nhận ra lòng mình:
Hương Giang êm ả vòng tay
Ôm bờ phố đếm tháng ngày đục trong

Ba chữ: “ôm bờ phố”, tác giả đã nhân cách hoá để nói lên tình cảm da diết của mình.
Hiện nay Hồ Đắc Thiếu Anh vẫn đang còn đi xa, thỉnh thoảng có việc mới về lại Huế. Nhà thơ muốn làm một cái gì cho Huế đó mà chưa làm được, giống như một món nợ chưa trả. Thiếu Anh cũng bộc lộ tâm trạng ấy:
Nợ sông Hương một lời thề
Đành xin hẹn lại mai tê đáp đền
.
Thiếu Anh ơi, người xa quê nhớ quê da diết thế cũng là một cách đáp đền rồi, song nếu Thiếu Anh làm được một cái gì cho Huế nữa thì càng tuyệt. Rất mong được gặp Thiếu Anh để ta trò chuyện với nhau về nỗi mong muốn này. Biết đâu chúng ta sẽ tìm ra một điều thú vị cho Huế của nhà thơ.
                                                                   U.C

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)