Bây giờ là lúc...

17:06 29/12/2008
TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

Mặc dù đã từng ở trọ nhà anh, từng trò chuyện với anh và giảng dạy thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nhà trường nhưng chưa lần nào tôi nghĩ sẽ viết về thơ anh nhất là khi anh luôn thăng tiến trên con đường danh vọng. Nhưng đến lúc này, khi anh đã trở về với “ngôi nhà bình yên giữa cây cỏ, hoa lá”. Và khi đọc những bài thơ mới nhất của anh ở Văn nghệ (5/8/2006) và Tuổi trẻ (27/8/2006) tôi thấy như có gì thôi thúc trong lòng muốn viết một điều gì đó về thơ anh.
Quả thật, khác với giọng điệu thơ của Nguyễn Khoa Điềm trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước ở “Đất ngoại ô” (1973), “Mặt đường khát vọng” (1974), thơ anh đã có bước chuyển giọng điệu kể từ tập thơ “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986) và “Thơ Nguyễn Khoa Điềm” (1990). Giọng điệu thơ anh ở các tập thơ này không còn là “giọng cao” của một thời “thơ ta ơi hãy cất cao tiếng hát” (Tố Hữu) khi anh và những thi sĩ cùng thời đều sống và chiến đấu thật trong sáng và lạc quan
“Ta đi bao năm gian khổ
Vẫn nghe hát dưới cội rừng”
                                           (Màu xanh lên đường)
Mà đã chuyển sang “giọng trầm” thấm đẫm nỗi niềm day dứt trước những biến sinh của đời sống, khiến anh nhiều khi cảm thấy xót xa.
“Những bài hát không ai hát nữa
Đã vỡ trên môi anh ngọn gió dịu dàng
................
Những con đường không ai trở lại
Đã xuyên qua anh những mạch máu âm thầm
.................
Những con người không ai gặp nữa
Đã đặt trên vai anh gánh nặng cuối cùng.”
                             (Những bài hát, con đường và con người)
Không đau xót sao được khi cuộc sống lúc bấy giờ là bao nỗi lo toan của chuyện cơm áo đời thường.
“Con chào đời
Không có mười hai bà mụ áo quần xanh đỏ ngồi bên
Mà hai mươi bốn khuôn dấu vuông tròn chứng nhận con
                                    trên đủ loại giấy tờ tem phiếu”
                                                           (Ngôi nhà có ngọn lửa ấm)
Cho đến những bài thơ đăng báo Văn nghệ và Tuổi trẻ hôm nay thì giọng thơ thế sự ấy đã được đẩy lên một cung bậc mới đầy chất triết lí nhân sinh. Có lẽ mọi con đường của thơ nói chung và của nhà thơ nói riêng suy cho cùng đều chảy về một biển. Đó là biển của cõi nhân gian, của những nghĩ suy về thân phận con người như nhà thơ Bùi Giáng đã suy ngẫm “Chúng ta là một hạt bụi giữa mịt mùng. Rủi ro là một hạt bụi biết đau khổ.(1)
Phải chăng những nghĩ suy của thi sĩ Bùi Giáng trên đây cũng là những suy nghiệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong những bài thơ của anh vừa công bố:
“Bây giờ là lúc có thể chia tay với
                                   điện thoại để bàn, cac vi-dit, nắm đấm mi-cro
Tự do lên mạng với đời sống, ăn ngủ với bụi đường
Một mình một ba lô và xe đạp
Bây giờ gió gọi anh đi
Mặt trời đánh nhịp về tám hướng
Từ giã cà vạt, giầy đen, lời trịnh trọng
Anh là một với cánh đồng, cánh hẩu với quán cóc, ăn chịu với cỏ.
Hò hát một mình, đọc những gì yêu thích,
                                                         ghi chép những gì cần ghi chép
Thế giới thật rộng, những ngã đường độ lượng”
                                                               (Bây giờ là lúc...)
Để rồi anh lại “định vị” cho mình, cũng là “định vị” cho thơ khi anh muốn “làm mới cuộc đời mình”, “Để là một người trong mọi người” sống gắn bó với cộng đồng, với làng xóm, quê hương. Đó là con đường trở về an nhiên nhất, sau những gì anh đã trải nghiệm trong cuộc sống. Tôi thật lòng chia sẻ với anh, một sự chia sẻ tri âm của người đọc với nhà thơ.
“Tôi trở về thành phố tuổi thơ
Sau bảy trăm cột cây số mải miết
Mỗi sớm mai, cùng với mặt trời
Tôi đạp xe dọc bờ sông
Hút tâm trí đường bơi những con bống cát.”
                                                               (Định vị)
Thật vậy, không phải ai từng bước lên đỉnh cao danh vọng, đã từng ở trong vòng xoáy của chốn quan trường mà khi trở về lại thanh thản đến thế. Vì vậy, tôi hoài nghi sự thanh thản này khi mới chỉ đọc 3 bài thơ đầu của anh đăng trên Văn nghệ. Nhưng khi đọc tiếp 3 bài thơ của anh đăng trên Tuổi trẻ chỉ cách nhau có ba tuần và hầu hết các bài thơ đều được viết trong tháng 7/2006 thì tôi tin sự thanh thản của anh là có thật. Phải chăng, đây là một ứng xử văn hoá, một nhân cách sống, đã làm nên một hệ giá trị mới cho thơ anh. Bởi lẽ, dẫu đó là những bài thơ được viết ra trong tháng 7 như thời gian ghi ở cuối các bài thơ, nhưng chắc hẳn không ai ngây thơ tin rằng đó là những cảm xúc chợt đến mà là những nghĩ suy của một quá trình nghiệm sinh từ chính cuộc đời thi nhận. Chính cốt cách này đã tạo cho thơ anh một dáng đứng vững chãi, không phải là “Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” trong thơ của một thời đã qua mà đó là dáng đứng “vô tư” của “con bò gặm cỏ”
“Đứng đấy tự bao giờ, bên dòng sông cũ
Con bò gặm cỏ
Chậm rãi
Một ít bóng đêm và ít hạt bình minh
Từng miếng một, nhai và thở
Không nghe tiếng người, tiếng xe cộ lại qua
Bụi bặm một ngày kiếm sống
Nó nghe thấy vị ngọt trong cọng cỏ.”
                                                          (Cỏ Ngọt)
Có quá lời chăng khi tôi nghĩ rằng hình tượng “con bò gặm cỏ” ở bài thơ này đã hiển lộ cái chất “thiền”, chất “triết lí” vốn là một nét phong cách trong thơ anh nói như Vũ Quần Phương: “Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ một khuynh hướng trí tuệ trong các dạng thức cảm xúc. Đây vốn là mặt mạnh của anh ngay ở tập thơ đầu”. (2) Hình tượng ấy đã trở thành một điểm sáng thẩm mĩ, một nỗi ám ảnh từ trong vô thức thường xuất hiện trong thơ anh thể hiện một chiều sâu tâm cảm xoáy vào tâm thức người đọc như ở bài thơ “Chiều Hương Giang” mà anh đã viết trước đây:
“Nhưng chiều nay con bò gặm cỏ
Bên giòng sông chưa biết chiều tan
Tôi với nó lặng im bè bạn
Mắt nó nhìn dìu dịu nước Hương Giang”
Hình ảnh “Con bò gặm cỏ” rất đỗi bình thường hằng ngày ta vẫn thấy mà sao khi đọc thơ anh, tôi thấy lòng rưng rưng day dứt. Và tự nhiên có một mơ ước thành thực đến quái dị, không chỉ như anh làm bạn với con bò mà muốn mình được hóa thân thành “con bò gặm cỏ” vô tư, chậm rãi, không buồn nghe bất cứ xao động gì của đời sống ngoài kia, chỉ còn cảm nhận vị ngọt của cỏ.
Bởi vì:
“Giữa thế giới không nhiều may mắn
Ta học cách vừa lòng với mình
Chia sẻ sự bình tâm của cỏ”
                                                       (Hi vọng)
Ai có thể bình tâm trước đời sống có quá nhiều điều bất an!? Nhưng trong một không gian nào đó của cuộc sống, hay một thời gian nào đó của đời người nhiều khi chúng ta phải “học cách vừa lòng với mình”, học cách “bình tâm” nếu chúng ta không muốn mình bị loại ra khỏi “cuộc chơi” của “canh bạc” cuộc đời. Nhưng để giữ được là mình ta phải tự tạo sức đề kháng cho chính mình. Chính sức đề kháng này đã đưa anh trở về với tuổi thơ và cho anh niềm tin vào những điều tốt đẹp của cuộc sống.
“Nhiều khi đá dạy ta mềm mỏng
Sự tàn nhẫn nhắc ta điều lành
Nỗi buồn đánh thức hy vọng”
                                                      (Hy vọng)
Đồng thời nó cũng là một thứ thuốc thử trước những cám dỗ của lợi danh để những điều tốt đẹp trong tâm hồn anh được kết tủa, được toả sáng giúp anh gìn giữ nhân cách mình. Vì thế, anh luôn tự đối thoại với mình để làm một cuộc phản tỉnh, một sự phân thân nhưng không bao giờ đánh mất mình. Đó là điều đáng quí ở anh.
“Có khi giữa đêm chợt thức
Bồng bềnh ý nghĩ xót xa
Mình có thể, không thể?”
                                                 (Hy vọng)
Tôi nhớ một thiền sư đã nói đại ý: Sáng nay trước nghìn đạo quân không làm tôi sợ nhưng tối nay tôi sợ chính mình. Quả thật, cuộc đấu tranh với chính mình là cuộc đấu tranh gay go và khốc liệt nhất. Biết bao người đã không vượt qua chính mình đành “bị chấp nhận” hay “mặc nhiên chấp nhận” sự vong thân của mình để rồi họ đánh mất mình tự lúc nào mà chính họ cũng không nhận biết. Nguyễn Khoa Điềm thì khác, anh “chưa bị” đánh mất mình và cũng “không chịu” đánh mất mình vì không những anh luôn tự phản tỉnh mình mà còn biết cách tự giữ mình.
Cho dù:
“Không còn cách nào khác
Dù bị chặn hết mọi ngả về”
                                                         (Hi vọng 2)
Song anh:
“Vẫn hi vọng vào lòng tốt -
Lòng tốt của anh, lòng tốt mọi người
Để đứng cao hơn cái chết”.
                                                           (Hi vọng 2)
Như một chân lý vĩnh hằng, cuộc chiến đấu chống lại cái ác giữa cuộc đời này không hề đơn giản chút nào. Nhất là nhiều khi cái ác ấy lại được ngụy tạo bằng những danh từ hào nhoáng hoa mỹ. Nhưng tôi tin rằng dù ngụy tạo cách nào thì cái ác cuối cùng vẫn phải phơi bày chân tướng của nó. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã giúp chúng ta tin vào điều hằng cửu này. Đó là một tất yếu những không phải ai cũng ngộ ra mà nhiều khi họ đắm chìm trong bến mê ấy một cách “tự nhiên, nhi nhiên” để rồi đến cả niềm vui, nỗi buồn của họ cũng không bao giờ có thật. Họ biến mình trở thành một thứ robot, một thứ tắc kè hoa luôn đổi màu trước những biến sinh của đời sống. Và để tồn tại họ chấp nhận đánh mất mình, chấp nhận sống chung với các ác. Nhưng ở anh thì khác! Bằng tâm linh và sự thấu thị của một thi nhân, anh đã nhận thấy:
“Nỗi buồn thăm thẳm chỉ có anh biết được
Chỉ có anh đếm được bằng tay những đốt sống và
                                                            xương sườn của mình
Trước kết cục bụi bặm
Chỉ có anh
Trông mong sức mạnh của lòng tốt
Vốn lẻ loi
Vốn chua xót
Chỉ có lòng tốt
Dù anh đến cuối đời này
Để gặp hạnh phúc”
                                                (Hi vọng 2)
Niềm tin vào lòng tốt của con người ở Nguyễn Khoa Điềm không phải là một ngẫu hứng một thứ khẩu hiệu mà đó là một tuyên ngôn nghệ thuật, một quan niệm sống như chính lời “Tự bạch” của anh:
“Tôi nghĩ có ba yếu tố làm nên phẩm chất của văn chương,
đó là Lời - Hành động - Tấm lòng.
................
Có lời hay, có khát vọng hành động mạnh mẽ, nhưng thiếu đi tấm lòng nhân hậu, cao thượng thì vẫn chưa thể có văn hay.
Cho nên có sách nói thuỷ tổ là lời, có sách nói thuỷ tổ là hành động cũng nên có sách thuỷ tổ là tấm lòng.” (3)
Và cũng như anh, tôi tin rằng “chỉ có lòng tốt” mới giúp con người tìm thấy hạnh phúc, một thứ “của cải” không dễ gì tìm thấy giữa chốn nhân gian nầy. Riêng với Nguyễn Khoa Điềm tôi nghĩ anh sẽ có hạnh phúc trong những ngày còn lại của đời mình. Một hạnh phúc thật sự nhờ anh biết “vịn” vào lòng tốt và “vịn” vào những câu thơ để vui sống. Bởi nói như Cyprian Norwid, một nhà thơ Ba Lan “Thế giới nầy rốt cuộc còn lại hai thứ, chỉ hai thứ thôi: thi ca và lòng nhân ái... Không còn gì khác”.
Và tôi nghĩ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận ra chân giá trị mà nhà thơ Ba Lan kia đã nói. Cho nên, anh đã trở về với thơ như trở về ngôi nhà “hữu thể của mình”. Đó là ngôi nhà của “Mẹ và Thơ”. Cuộc trở về sau một thời gian “xa mặt” nhưng chẳng “cách lòng”. Vì thế, anh vẫn hiệu hữu cùng với nàng thơ. Thơ anh vẫn tươi trẻ, vẫn sung túc, vẫn còn nguyên sự chiêm nghiệm như ngày nào trong lòng người đọc. Bởi anh là người luôn biết sống:
“Hãy lộn ngược da anh
Và ghi lên đó mật khẩu
Không lùi bước!”
                                            (Bây giờ là lúc....)
  Quảng Ngãi, 27-8-2006
T.H.A

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



-----------
(1) Bùi Giáng, nhân đọc “Rừng Phong” (Vũ Hoàng Chương), Văn số 150 ra ngày 15/3/1970, tr 47).
(2) Vũ Quần Phương “
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm”, Tác phẩm văn học số 4 tháng 1-2-1988, trang 216).
(3) Nhà văn Việt Thế kỷ XX (tập 2) Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1999, trang 178-179).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H