Baudelaire và bài thơ “những con mèo”

09:10 24/11/2009
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

Nhà thơ Pháp Charles Baudelaire - Ảnh: wikipedia.org






          Những con mèo

            1.Những tình lang nhiệt tâm và những nhà thông thái nghiêm trang
            2.Như nhau cùng yêu, vào mùa đời đã chín,
            3.Những con mèo, niềm kiêu hãnh của ngôi nhà, dịu hiền và mạnh mẽ,
            4.Chúng giống họ co ro và như họ ẩn cư.

            5.Là bạn hữu của tri thức và du khoái,
            6.Chúng kiếm tìm sự lặng yên và điều ghê hãi của tối tăm
            7.Âm phủ hẳn đã nhận chúng làm những con tuấn mã xe tang,
            8.Nếu chúng chịu nghiêng lòng tự tôn của mình vào nơi phục dịch.

            9.Trong mơ mòng chúng mang dáng điệu quý phái
            10.Của những con nhân sư vĩ đại duỗi dài tới thẳm sâu của những đơn côi,
            11.Như đang thiu ngủ trong một giấc mơ miên viễn;

            12.Lưng cật sung mãn của chúng tràn ngập những tia chớp diệu huyền,
            13.Cùng những vẩy vàng, như cát mịn,
            14.Nhấp nháy mơ hồ những vì sao đôi con ngươi thần bí của chúng.
                                                (Đ.D.H. dịch)

Baudelaire (1821 - 1867) là một thiên tài thơ nổi loạn. Tập thơ "Hoa Ác" của ông là "bình minh của cái đẹp toát ra từ đêm đen của cái ác". Các "khoảng trắng" đa âm, mơ hồ của tiểu thuyết "Bà Bovary" (1856) cùng với "một thế giới vỡ vụn", đứt đoạn của "Hoa Ác"  (1857) đã khiến từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi văn chương Pháp rẽ sang một hướng mới - tính hiện đại (modernité). Thế gới thơ baudelairien thể hiện cái mâu thuẫn, cái lưỡng phân của con người hiện đại. Ngay cả trong những bài thơ tưởng như dễ đọc vẫn gây những ám gợi, liên tuwỏng xa xôi. "Những con mèo" nằm trong trường hợp như thế được sáng tạo từ Baudelaire "Nhà thơ của  những con mèo" - Poète des chats (Jacobson - Strauss).

Trong "Hoa Ác" có ba bài về mèo, hai bài có nhan đề ở số ít, riêng một bài ở số nhiều: Những con mèo mà chúng ta đang đề cập. Bài thơ đã được nhà thơ Vũ Đình Liên dịch trong tập "Thơ Baudelaire", Nxb Văn Học, năm 1995, trang 100. Trên Tạp chí Văn Học số 7/1997 cũng đã được MH và TBĐ dịch lại nhân giới thiệu lướt qua khá thành công những phần phù hợp với độc giả Việt Nam bài nghiên cứu tài năng của hai nhà cấu trúc học hàng đầu thế giới là R.Jacobson và L.Strauss về bài thơ này. Bài nghiên cứu rất tỉ mỉ về hiệp vần, danh từ, tính từ, động từ, dấu câu, cấu trúc ngữ pháp, các khổ thơ, không - thời gian, các hình ảnh tương ứng nhau, nhân vật (động vật/ phi động vật)... một cách rất thuyết phục, rất sâu. Jacobson và Strauss đã làm"nổ tung", "tháo rời" văn bản thơ Baudelaire qua 19 trang in chữ nhỏ để tìm ý nghĩa bài thơ của một thiên tài không hề là "tự phát" như chúng ta có thể thấy phần nào những phát biểu rất có ý thức về chức năng ngữ pháp, ngôn từ của Baudelaire ở phần đầu bài viết này.

Ngay trong khổ thơ đầu, "Những con mèo" của Baudelaire đã mang hai đặc tính: "dịu hiền và mạnh", tương hợp với cách nhìn: "vừa dịu dàng vừa vờ vĩnh" trong biểu tượng. Tuy nhiên, sang khổ 2, chúng đã được nhà thơ nhân hóa: "Là bạn hữu của tri thức và du khoái" ứng đối trực tiếp với câu đầu tiên của khổ đầu tiên: tình lang và nhà thông thái. Là bạn hữu, trong nó hiển nhiên có cả sự nhiệt tâm của người tình và tính nghiêm trang của nhà thông thái. Ngay trong nội tại một sinh vật đã ẩn tàng hai đặc tính của người, nhất là đặc tính "tri thức" (science). Hai đặc tính này nếu không loại trừ nhau hoàn toàn cũng rất khó kết hợp một cách nhịp nhàng trong một con người, chúng mâu thuẫn nhau, "cái này giết chết cái kia". Song con mèo của Baudelaire do được thừa hưởng từ "mẫu gốc" "sức mạnh và sự khéo léo", tinh ranh, đã được "nâng cấp" lên ngang hàng người trong khi loại trừ những yếu tố linh thiêng, ma thuật.

Đặc biệt ở hai câu 7 và 8, mèo mang tính chất tôn giáo được giả định "phục dịch" nơi âm phủ, nhưng nó không canh gác cây cầu để vứt xác những linh hồn tội lỗi xuống nước âm phủ mà làm ngựa kéo xe tang. Hình ảnh mèo được "chắt" ra từ "mẫu gốc", nhưng đã được "huyền thoại hóa" đi từ thế chủ động sang thế bị động, bị cưỡng bức bằng lao động dẫu nơi đó (âm phủ) là linh thiêng, cao quý với vị trí, thân phận của nó. Nhưng do "lòng tự tôn" mà nó không chịu làm điều đó. Chúng ta nói: "Không trâu bắt mèo cày ruộng" nằm trong tư duy dân gian về cái phi lý, bần cùng, nói ngược và thấp thoáng sự hài hước, xót xa. Sau cùng, trong hai câu thơ trên đây, âm phủ đồng nghĩa cới cái chết, sự tối tăm, ảm đạm lại được đến ngay sau hàng loạt các hình ảnh về hoạt động của sự sống thực, nó đối lập với "ngôi nhà": hai thế giới mau thuẫn nhau thường thấy trong thơ Baudelaire. Ngay sau hình ảnh về âm phủ tối tăm lại đến sự chói chang của nắng thông qua ẩn dụ về con nhân sư, đầu đàn bà mình sư tử tượng trưng cho Mặt trời - một biến hình tiếp theo của mèo. Toàn bộ hai khổ thơ cuối cùng của bài xon-nê mang một không khí vừa thực vừa "siêu thực" (Jacobson-Strauss), vừa về con mèo ở khắp mọi nơi, vừa "thần bí" hơn bản thân nó rất nhiều. Tài thấu thị của nó, cuói cùng, nằm trong "đôi con ngươi thần bí" (prunelles mystiques).

Các con mèo trong sáng tác của M.Aymé hoặc của Apollinaire không có "dáng vẻ" như thế. M.Aymé có tập truyện "Con mèo ú tim" Alphonse thông minh, nhạy cảm, đáng yêu, cả sự láu lỉnh, ranh mãnh, tập trung trong nó những ngụ ngôn về loài người. Tuy nhiên, có một chi tiết cầu mưa bằng cách gãi tai của mèo Alphonse lại gần gũi với phong tục của Cămpuchia nhốt mèo vào lồng, té nước (dù hình thức khác nhau vẫn cùng chung chức năng gọi mưa): từ trong sâu thẳm, mèo ở mọi nơi vẫn "gợi nhớ về trạng thái hỗn mang, nguyên thủy", nó liên quan đến hạn hán và thiên tai. (bản thân nó cũng ít tắm, sợ nước. "Meo meo meo rửa mặt như mèo/ Xấu xấu chẳng được mẹ yêu... là bài đồng dao hiện đại của trẻ em chúng ta). Như vậy, "nhân vật tích cực" của M.Aymé vẫn mang trong nó "tì vết" của cha ông chúng. Những tính cách "vờ vĩnh", "mơ màng", "quý phái", thiu ngủ"... ban ngày đã tự phủ nhận công lao bắt chuột về đêm của mèo và bị người đời cho là lười. Chả thế mà bố mẹ của hai bé gái, Delphine và Marinette (có lúc ngay chính cả các em) rất ghét Alphonse và có lần ông bố đã mang quẳng Alphonse ra sông cho chết đuối. Nhưng nhờ mưu mẹo của hai em và cả bầy gia súc mà Alphonse được cứu thoát... Hậu duệ cùng thế kỷ với con mèo "ngụ ngôn" có hậu này là "Chú mèo máy thông minh Đôrêmon" - "cơn sốt" yêu thương mỗi thứ sáu hằng tuần của các em nhỏ Việt Nam cách đây vài năm hẳn các bậc phụ huynh chúng ta còn nhớ. Con mèo cũng đã đi vào phim nhiêù tập theo kiểu "Hãy đợi đấy": Tom và Jerry - "ngụ ngôn" về sức mạnh ngu ngốc, mù quáng của mèo chả bao giờ thắng được sự ranh mãnh, láu lỉnh của chuột.

Trong tập thơ "Rượu", Apollinaire có một bài ngắn năm câu thể hiện ao ước của nhà thơ về ba điều: Tôi mong ước trong nhà:/ Một người vợ hiền thảo,/ Một con mèo lượn qua sách vở,/ Quanh năm có bạn bè/ Thiếu những điều đó làm sao tôi sống nổi" (3) Ba điều mà thực ra lại là bốn: Sách vở bị ẩn đi sau chủ từ mèo. Điều quan trọng nhất bị chìm đi, không có trong danh sách "trang trí" nội thất! Tát cả ba điều kia nếu không ồn ào thì cũng động đậy, riêng sách vở trung thành là im lặng, ẩn cư. Tuy nhiên, trở lại với những con mèo của hai người vừa nêu, chúng ta nhận thấy tính thuần chất ít ra là trên bề mặt văn bản mà không lấp lánh phát ra những ý tượng trưng hai mặt, mâu thuẫn như Những con mèo của Baudelaire. Điều đó xuất phát từ tính "nước đôi" vừa là cái này vừa là cái kia, vừa do nguồn gốc chung vừa nằm trong chủ ý riêng của nhà thơ về mèo. Tính cách người và những biến hình của mèo đã được Jacobson và Strauss phân tích rất sâu để cuối cùng đi đến kết luận: "đối với Baudelaire, hình ảnh mèo gắn bó chặt chẽ với hình ảnh người đàn bà..." (4) - có liên quan với các hình ảnh cụ thể trong hai bài thơ còn lại của tập. Tính cách ma thuật thay hình đổi dạng cũng như "lưng cật sung mãn" khơi gợi khả năng sinh sản cho thấy người đàn bà vừa tốt lành vừa độc hại, vừa là cái "siêu thời gian" vừa là cái thoáng qua để lại nỗi buồn chán bên cạnh sự khát khao lí tưởng, ngợi ca cuộc đời trong cái nhìn của Baudelaire. Hình ảnh người phụ nữ vừa âm u vừa tỏa sáng là một ám ảnh lớn, tuyệt vọng và khao khát vươn lên cái tuyệt đối của nhà thơ. Người đàn bà sẽ "rọi chiếu bóng tối lớn nhất và ánh sáng lớn nhất vào những giấc mộng của chúng ta".(5)

Mối quan hệ giữa ý dục (hữu thức hoặc vô thức) với trí năng được Schopenhauer ví như thằng mù khỏe mạnh cõng thằng què sáng mắt: Không phải bao giờ người chủ trí năng cũng sai khiến được và bắt được kẻ nô lệ ý dục phải tuân lệnh mình. Điều đó đã được Esope (VI-V tr. C.N) của Hi Lạp biểu đạt trong một hình ảnh tuyệt vời: Con mèo biến thành người đàn bà ngồi đoan trang ở góc phản cho đến khi con chuột chạy qua, lại trở lại nguyên hình mèo. Thiên tài thơ của Baudelaire đã được "đúc" ra từ những "mẫu gốc" biểu tượng và ngụ ngôn, có thực và siêu thực thật xa xưa như thế. Một mặt, Baudelaire đã cho chúng ta "hình ảnh mèo gắn bó chặt chẽ với hình ảnh người đàn bà", mặt khác, thật sâu xa, phải chăng đó cũng chính là bản năng vô thức "dịu hiền và mạnh mẽ", "Bản năng gốc", vẫn luôn luôn thức ngủ "đoan trang" trong mỗi chúng ta làm động lực cho sáng tạo, sự sống, tình yêu... Với "Những người khốn khổ", Victor Hugo đã từng tha thiết: "Trong đời chỉ có một điều ấy thôi : là yêu nhau".

Những ngày mùa đông Mậu Dần, 1998
Đ.D.H
(126/08-99)


---------------------------------------------
(1). Roman Jacobson, Questions de poétique. Ed. du Seuil, Paris, 1973. Tr.420.
(2).
Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới. NXB. Đà Nẵng - Trường Viết văn Nguyễn Du, 1997. Mục từ Mèo.
(3). Apollinaire,
Alcools, Gallimard, 1986.
(4). Roman Jacobson, S.đ.d. Tr.418.
(5).
Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XIX, (Đặng Thị Hạnh - Baudelaire) Nxb. Ngoại văn, Hà Nội, 1990, Tr.302.





 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.

  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.