Bật máu gọi tôi ơi (1)...

15:59 22/07/2009
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

Nhà thơ Nhất Lâm (Ảnh: thovietnam.avn.vn)

Cảm nhận thật đậm từ tập thơ này, là già Lâm đã dừng lại rất nhiều lần, rất lâu trước những dòng sông. Ở tuổi trời sao xanh ngoái lại, đời người như sông dài, trôi mải miết, những bến cùng bờ. Dòng sông trôi đi, mang theo bao ước nguyện, hình bóng, và cả những tiếc nuối ơ hờ. Dòng sông chảy qua làng quê thanh bình yên ả nơi lưu dấu tuổi thơ ông "theo trâu về bến Đình vọc cát. Ra bờ sông đánh trận hoan ca". Dòng sông quê cũng là hình ảnh người mẹ hiền tần tảo sớm hôm, người con gái gánh rau về chợ, và cũng là nơi những người đồng đội của ông đã ngã xuống trong những ngày chiến tranh tàn khốc. Bây giờ đứng trước dòng sông, nhìn "hoa trên sông" thấy sông là cả một "nghĩa trang" buồn bã... Sông trôi như phận người. Ông "ru sông" cũng là ru cả một đời người, đời mình... Ru hời, sông chảy đi sông...
            Ngày thác lũ
            Sông đỏ bầm máu dữ
            Hành kinh cho nhân loại phù sinh

                                                (Sông đêm)

Những câu thơ thật kỳ lạ. Đó có phải là sự nhào trộn nhuần nhuyễn của ý tưởng, hình tượng và tư duy triết học trong một "nồi áp suất" sáng tạo bao giờ cũng nóng rực? Thơ hay, đọc lên nghe bàng hoàng là vậy. Ngay cả với những câu thơ thật nhẹ nhàng như không, nhưng vẫn chứa đựng những khuất khúc, dồn nén, thăm thẳm...:
            Sông buồn như
            mất mẹ
            Nước đổi màu
            thơ ngây...

                                    (Ấn tượng)

Cứ vậy, dòng sông đã theo suốt đời ông, thơ ông. Ông lớn lên bên sông, cùng sông đi hết những "đầu nguồn cuối mặt" để bây giờ trở lại, cũng chính dòng sông ấy đã giúp ông gột rửa bụi hồng, cả "vết thương đôi bờ lở lói", thầm thì cùng ông về lẽ vô thường, về nơi chốn đích thực của con người: chỉ là thăm thẳm một chữ "trôi"...
            Hoa trôi định mệnh
            Trôi về tâm linh
            Vơi đi nỗi buồn
            Hoa ơi dòng sông...

                                    (Hoa trên sông)

Không phải ngẫu nhiên mà đến lúc này, thơ Nhất Lâm lại đầy ắp những suy tư về phận người. Nỗi đau buồn mất mẹ, mất mẹ khi tuổi ông cũng không còn trẻ nữa, cái chết đẹp như từng sống của những nhà thơ đàn anh, của người bạn thơ mà ông hằng yêu quý... khiến ông càng nhận chân cuộc đời có có không không... Thờ ơ với những thua được trò đời bởi rồi ra "trăm năm một ván cờ", ông quẳng gánh sau lưng bao nhiêu mệt mỏi, ưu phiền, và cả một kiếp sống đầy hệ lụy:
            Ngày mai ừ chấm hết
            Gác chân nằm xả hơi
                                   
(Trăm năm)

Tất cả rồi sẽ tan biến, nhẹ nhàng thinh không:
            Có khi Trời cũng chết
            Như là giọt sương rơi
                                   
(Sương xuân)

Lên vùng Hương Thọ nơi có lăng vua, nhìn trăng bến Tuần, thấy "vua sống giữa mùa trăng xanh cỏ". Tại sao "sống" mà không phải là "chết"? Có phải "vầng trăng lang thang bến lạ" đã giúp ông nghiệm ra rằng "một đời người ngắn ngủi còn chi", rằng cõi sống của người cũng bàng bạc như trăng... Nhớ về một nhà thơ đàn anh, người mà trọn đời đau đáu Huế và thơ, trong ông nặng trĩu suy tư:
            Ơi con người trời đất tạo hoá
            Núi cùng sông duyên mỏng phận hờ
            Khi về nằm dưới cỏ
            Hết buồn không anh hỡi nhà thơ...!

                                    (Người một đời)

Hỏi, mà cũng là tự trả lời. Như đời tằm thôi chuyện bể dâu hãy còn day dứt đường tơ, người nghệ sĩ một ngày kia "khi về nằm dưới cỏ" làm sao có thể "hết buồn"? "Buồn", hay là thấm đẫm suy tư? "Sông ơi... sông ơi.../ Người buồn chi vậy...!. Những hiện hữu trên cõi đời này chỉ là tạm, chỉ là "duyên mỏng phận hờ", riêng những suy tư ngàn đời còn mãi. Cũng trong một bài thơ tưởng niệm khác, về một nhà thơ rời cuộc đời đã lại tiếp tục "phiêu bồng một cuộc rong chơi" mới, rong chơi với tuổi tên kiêu bạc, với một kiếp nạn mới của tâm hồn:
            Ông bây giờ thăng hoa dưới đất
                                   
(Mộ thi nhân)

Có nghĩa là, với ông, cuộc đời chỉ là một cuộc chơi. Ông vô cùng tâm đắc triết lý sống ấy của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, ông viết như cho mình:
            Làm quan
            kinh ngựa cỡi bò
            Thượng thư lính lệ
            cũng trò nhố nhăng
            Chi bằng
            một rượu một trăng
            Một cô em Huế
            một thằng ham chơi
                                   
(Nguyễn Công)

Mặc kệ người với những mất còn, được thua, mặc kệ "đời là trò chẵn lẻ", ông tự nhủ thầm: "Trăm năm ai dài ngắn/ Ta sống đủ cuộc chơi" (Trăm năm). Thật ra, cuộc chơi với người ham chơi ấy, nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường: "là cách sống đạt đạo của con người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới" (2).
Vậy thì hà cớ gì không cất bước lên đường, đi và đi mãi...?
            Ta phong trần mấy độ
            Cát bụi nào sá chi.
                                   
(Đá phong trần)

Có thể nói phần lớn cuộc đời ông là những chuyến đi. Trên từng vùng đất, ông sống thật trải lòng và đều để lại những trang viết đầy trí tuệ và ân tình. Chính trải nghiệm phong phú từ những chuyến đi đã kích thích tiềm lực sáng tạo dồi dào trong ông:
            Hạt vùi sâu trong đất
            Cựa mình gọi mặt trời
            Tim ai vùi trong ngực
            Bật máu gọi tôi ơi...

                                    (Gọi)

Ông viết liên tục, từ những giục giã nội tâm, như thể sợ chỉ một phút gây chểnh mảng cũng có thể làm tan biến những điều tốt đẹp nhất. Quan niệm về sáng tạo của ông đã rõ: Tim ai vùi trong ngực/ Bật máu gọi tôi ơi... Rõ ràng là cuộc sống đã gọi tên ông, trao gửi nơi ông một trái tim đầy nhiệt huyết, để chia sẻ những buồn vui bất tận của cuộc đời. Đó cũng chính là sứ mạng lớn lao của thơ mà ông hằng theo đuổi. Càng đi nhiều, viết nhiều, thơ Nhất Lâm càng tươi mới, đầy sức sống và thấm đẫm ân tình. Bằng một giọng thơ ấm áp, ông viết về con người với những trang đời xuân sắc:
            Mùa lá dong xanh lá
            Gạo nếp ngọt phù sa
            Bánh chưng tình của mẹ
            Bánh tét nghĩa ơn cha
                                   
(Mai)

Và day dứt, thẩm sâu với ước vọng ngàn đời, như những ngôi "sao xanh" trên bầu trời:
            Ta nhìn sao bằng ngọn lửa
            Cháy bùng trong trái tim đau
                                   
(Sao xanh)

Hay với cả nhưng cơn mộng mị dày ải, vục vào trong giấc ngủ không yên: "Đêm qua tôi ngủ cơn mê đỏ bầm" (Bất chợt). Cái cách ông cảm nhận cuộc đời và con người cũng thật khác lạ, thật đấy mà vẫn ảo ảo hư hư:
            Anh tìm theo lông ngỗng
            Lạc đến quán rượu chiều
            Lông ngỗng nào có thấy
            Người bên người liêu xiêu
                                        
(Rượu chiều)

Chính là con người đang bận bịu, đang xoay xở với những dự định, những ước vọng đời mình. Hình ảnh trong thơ buồn và đẹp đến nao lòng. Trong hành trình đi tìm "lông ngỗng" hạnh phúc, con người sao mà nhỏ bé, sao mà mong manh. Rồi họ sẽ tìm thấy? Tin là như thế, để càng thêm yêu mến cuộc đời. Bởi dẫu phù hư trần thế, con người vẫn lớn lao với khát vọng đầy trời, trong từng khoảnh khắc nhân văn huyền hựu.
Thơ Nhất Lâm thầm thì cùng chúng ta điều đó.

Huế, tháng 2. 2004
P.N.T
(182/04-04)

---------------------
Đọc Vú Đá (tập thơ) Nhất Lâm- NXB Thuận Hoá 2004
Người ham chơi (nhàn đàm)- Hoàng Phủ Ngọc Tường- NXB Thuận Hoá 1998

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.

  • HUỲNH HẠ NGUYÊN         (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...

  • LÊ MỸ Ý (L.M.Y):  Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.

  • Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.

  • NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".

  • NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.

  • PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

  • NAM NGỌC            (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện  ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.

  • BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

  • HOÀNG VŨ THUẬT                (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.

  • ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

  • NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.

  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.