Năm 1945, sau khi nhà Nguyễn cáo chung, một số giá trị văn hóa phi vật thể của Huế không còn giữ được môi trường diễn xướng nguyên thủy, nhưng những gì nó vốn có vẫn là minh chứng độc đáo về sự sáng tạo văn hóa của dân tộc Việt Nam.
GS. Trần Văn Khê giới thiệu Nhã nhạc với du khách trong nhà hát Duyệt Thị Đường
Tuy đã được duy trì và phát triển qua cả nghìn năm, nhưng ngày nay, các tài liệu lịch sử về các giá trị di sản Phi vật thể không còn nhiều, lại phân bố ở nhiều nơi, không có một cơ sở lưu trữ bài bản và hệ thống... Nhìn chung, các giá trị di sản Phi vật thể của Huế đã bộc lộ những hạn chế về mặt tư liệu.
Việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể nhằm thu hút khách du lịch không phải chỉ dựa vào trí tuệ một cá nhân, một tập thể, cũng không phải là công việc một sớm một chiều, mà phải có sự nỗ lực của các nhà khoa học, các nghệ nhân, nghê sĩ, các nhà quản lý và của tất cả mọi người. Một trong những vấn đề then chốt là phải tiến hành điều tra các giá trị văn hóa liên quan đến Huế, tổ chức các cuộc hội thảo để tìm giải pháp… Vậy, Làm thế nào để bảo tồn và phát huy các giá trị di sản Phi vật thể của Huế trong việc thu hút khách du lịch là một vấn đề cần được xem xét trong bối cảnh hiện nay.
Ngày 7/11/2003, Nhã nhạc Việt Nam đã được UNESCO ghi tên vào Danh mục Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Năm 2008, Nhã nhạc được UNESCO đưa vào danh mục Di sản Văn hóa Phi Vật thể Đại diện của nhân loại. Vì thế, nhiều dự án và đề tài nghiên cứu nhằm phục hồi và phát huy giá trị di sản đã được hình thành. Đặc biệt, sự tài trợ của Dự án quốc gia về bảo tồn nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam giai đoạn 2005 - 2009 với tổng mức kinh phí khoảng 350.000 USD, trong đó Quỹ ủy thác Nhật Bản tài trợ thông qua UNESCO gần 155.000 USD, số còn lại là vốn đối ứng từ phía Việt Nam đã góp phần không nhỏ vào việc bảo tồn loại hình âm nhạc bác học này. Sau 5 năm thực hiện, dự án đã phục dựng thành công Thái Bình Cổ Nhạc và phục chế một số nhạc cụ âm nhạc cung đình; hoàn thành bước đầu một số hồ sơ khoa học về nhạc cụ, nhạc khí; thành lập phòng lưu trữ về Nhã nhạc, sưu tầm hơn 1.000 trang tư liệu - thư tịch về Nhã nhạc, âm nhạc truyền thống và cung đình. Ðồng thời, dự án đã đào tạo được 20 nhạc công được đào tạo bài bản. Những người này thường xuyên biểu diễn phục vụ du khách tại Nhà hát Duyệt Thị Đường. Đây chính là cơ sở để khách du lịch biết và hiểu hơn về những giá trị di sản phi vật thể của Huế.
Du lịch Huế và du khách với việc tiếp cận nghệ thuật diễn xướng cung đình
“So với phương Tây, hoạt động du lịch và nhất là tổ chức của ngành du lịch ở phương Đông ra đời muộn hơn nhiều. Ở Việt Nam nói chung, ở Thừa Thiên Huế nói riêng, hoạt động du lịch cũng chỉ mới manh nha sau khi theo bước chân xâm lược của người Pháp đến nước ta vào những thập niên cuối thế kỷ XIX, và tổ chức du lịch được hình thành một cách chính thức sau khi thực dân Pháp thiết lập xong nền đô hộ trên toàn cõi Đông Dương vào những năm đầu thế kỹ XX” . Theo Guide de l’ Annam – cuốn sách giới thiệu và tuyên truyền chính thức về Trung kỳ nói chung và Huế nói riêng của tác giả Philippe Eberhardt viết rằng: “Nay là lúc các du khách bắt đầu tăng lên mỗi năm một nhiều trên các chuyến tàu đi Viễn Đông, cần làm ra những sách hướng dẫn để họ đến tham quan thuộc địa của chúng ta bằng những phương cách tiện lợi nhất, và chỉ trong một thời gian hạn chế, nhưng thu được những hiểu biết chính xác và rõ ràng về cả phương diện lịch sử và kinh tế lẫn vẽ đẹp của các phong cảnh” .
Tuy vậy, ngày 9/3/1945, các tổ chức và hoạt động du lịch của chính quyền Pháp ở Huế cũng đã bị giải thể sau khi xảy ra cuộc binh biến của quân đội Nhật tại Đông Dương.
Hiện nay, theo thống kê chưa chính thức của Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, Huế có khoảng hơn 50 Trung tâm lữ hành, nhưng làm thế nào để Huế có sức thu hút mạnh mẽ đối với khách du lịch vẫn là một điều nan giải.
Huế đang nắm giữ hai giá trị di sản văn hóa bao gồm: Quần thể di tích cố đô Huế và Nhã nhạc cung đình. Như vậy trên thực tế, khi đến Huế du lịch, ngoài thưởng thức các danh lam thắng cảnh, thưởng thức các món ẩm thực, thì việc tìm hiểu về giá trị văn hóa của hai di sản này theo ước tính cũng phải mất từ 04 đến 05 ngày đối với mỗi một du khách. Thế thì tại sao du khách chỉ lưu trú chỉ 01 đến 02 ngày? Ông Trịnh Quang Thang – Đại diện Công ty du lịch Việt Nam đã phát biểu khi nói về du lịch Huế: “Đây là mảnh đất của huyền thoại, đi đâu cũng gặp huyền thoại. Nhưng hai, ba chục năm rồi, sông vẫn vậy, núi vẫn vậy, biển vẫn vậy, chúng ta vẫn chỉ khai thác những cái mình có. Nhiều người chưa đến Huế hoặc chỉ đến Huế một lần là vì Huế thiếu đột phá, vẫn chỉ thành nội, lăng tẩm, ca Huế… Tôi coi Huế là thánh địa của du lịch, nhưng thánh địa này ảm đạm quá”. Ông Nguyễn Ngọc Thiện – Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế cũng thừa nhận: du lịch Huế chưa phát triển đúng với tiềm năng.
Có thể nói, du khách đang “quay lưng” lại với Huế, bởi dù tổ chức thành công nhiều kỳ Festival, được chính phủ công nhận là thành phố du lịch, thành phố Festival, đang triển khai và cấp phép hàng nghìn tỷ đồng cho các dự án du lịch, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia thì Huế đang “cũ” trong mắt du khách. Vậy, làm thế nào để du khách vẫn luôn thấy Huế mới hơn khi có dịp ghé lại? Cũng trong cuộc Hội nghị được tổ chức tại khách sạn Hương Giang, đã có nhiều ý kiến đưa ra, như: để du lịch Huế phát triển, tỉnh Thừa Thiên Huế cần tích cực quảng bá hình ảnh của mình thông qua các hoạt động như tuần văn hóa Huế, tổ chức các chương trình biểu diễn trên đường phố, quảng cáo trên truyền hình trong nước cũng như nước ngoài… Ngoài ra, chúng ta cần phải hướng cho du khách hiểu hơn về các giá trị di sản văn hóa của Huế khi họ có điều kiện tiếp cận. Để làm được điều đó, Huế cần phải có những hướng dẫn viên có tâm với nghề, am hiểu thật sự về các giá trị văn hóa của Huế vì hướng dẫn viên chính là cầu nối để truyền cảm hứng cho du khách khi họ muốn khám phá các giá trị di sản văn hóa của Huế…
Trong bài, Sau hơn nửa thế kỷ Duyệt Thị Đường lại sáng đèn, nhà báo Kim Oanh đã viết: “Đã hơn 10 giờ đêm. Đại Nội bắt đầu vắng vì tất cả các xuất diễn tại đây trong chương trình Festival Huế 2002 đã vãn. Thế nhưng, ở Nhà hát Duyệt Thị Đường, khán giả vẫn nán lại cho đến phút chót, ngồi chật kín cả tầng trệt. Một khán giả đã lớn tuổi ở phường Phú Cát với nghề trồng rau đã bỏ ra 70.000 đồng chỉ để vào xem chương trình Nhã nhạc Huế tại Duyệt Thị Đường. Cụ bảo: vốn rất mê ca Huế và Nhã nhạc, hễ khi nào có điều kiện, cụ lại đi xem. Nhưng được nghe những giai điệu réo rắc vừa buồn, vừa giục giã, níu kéo của những nhạc cụ tam, tỳ, nhị, nguyệt… làm nên Nhã nhạc cung đình Huế thì đây lại là lần đầu” .
Ngày 6/6/2006, lần đầu tiên một buổi giao lưu âm nhạc cung đình của ba nước đồng văn như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc trong chương trình đêm Hoàng cung được tổ chức tại Đại Nội – Huế. Từ trước đến nay, nhiều du khách nước ngoài chỉ có điều kiện để tiếp xúc với Nhã nhạc Nhật Bản, nay qua buổi giao lưu này nhiều du khách nước ngoài cũng đã ngạc nhiên vì chính thể Xã hội Chủ nghĩa hiện nay lại không xem Nhã nhạc – loại lễ nhạc của phong kiến – là thứ cần phải bỏ đi, mà còn được bảo tồn, phục dựng để biểu diễn phục vụ dân chúng du khách quốc tế. Như vậy, chúng ta có thể thấy du khách và người dân vẫn đang quan tâm và mong muốn tiếp cận để tìm hiểu về những giá trị nghệ thuật của chốn cung đình xưa, nhưng hiện nay chỉ có Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế là đơn vị duy nhất biểu diễn tại Nhà hát Duyệt Thị Đường (Đại Nội) với giá vé 70.000 và 120.000 đồng (sau này đã thống nhất giá vé: 100.000đ/1người) để phục vụ cho những ai biết và tìm đến với những giá trị của di sản phi vật thể mà thôi. Đây cũng là mặt trái của vấn đề, bởi cũng có nhiều khách du lịch, nhiều người dân không biết đến sự hồi sinh của loại hình nghệ thuật này, hoặc biết nhưng chưa có điều kiện để xem và tìm hiểu về những giá trị di sản quý báu mà cha ông chúng ta để lại.
Một số đề xuất để du khách và người dân có cơ hội tiếp cận với loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình.
1. Để những giá trị di sản phi vật thể của Huế vẫn giữ được những lợi thế trong việc phát triển du lịch, Huế cần có một Hội nghị bàn tròn giữa các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử, các nhà cung cấp dịch vụ du lịch như lữ hành, khách sạn, vận chuyển du lịch… nhằm tìm ra một giải pháp toàn diện và mới mẽ về việc quảng bá hình ảnh của các loại hình diễn xướng cung đình trong việc phát triển du lịch của Huế.
2. Cần có chính sách đãi ngộ đối với những nghệ nhân, nghệ sĩ, và xây dựng chiến lược lâu dài để nghệ thuật diễn xướng cung đình có thể phục vụ du khách và người dân mà không phụ thuộc vào kinh tế.
3. Trong quá trình bảo tồn và phát huy, chúng ta cần phải chú ý đến tính nguyên bản để người thưởng thức không hiểu sai về loại hình di sản. Chúng tôi đề cập đến vấn đề này, bởi hiện nay, các loại hình nghệ thuật của diễn xướng cung đình Huế đang có nhiều dị bản, và các trung tâm lữ hành, khách sạn khi phục vụ theo nhu cầu của du khách chỉ chú ý tới giá cả hợp đồng của các suất diễn, chứ không hề quan tâm đến chất lượng của nghệ thuật. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến loại hình nghệ thuật diễn xướng của cung đình Huế nhàm chán và “rẻ tiền” trong mắt du khách.
4. Tiền nhân của chúng ta đã để lại một nền nghệ thuật đồ sộ, nhưng cũng để lại rất ít sách, vở và tư liệu để hậu thế nghiên cứu nhằm khôi phục lại vốn cổ của tiền nhân. Chính vì vậy, khi nghiên cứu và bảo tồn các giá trị di sản của nghệ thuật diễn xướng cung đình, trong đó có việc đưa loại hình nghệ thuật này vào các tour, tuyến du lịch để giới thiệu với du khách, chúng ta cần phải tư duy và hướng cho du khách biết đâu là giá trị đích thực của loại hình nghệ thuật diễn xướng cung đình mà Huế đang nắm giữ.
Theo Trọng Bình (TRT)
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.