Bàn về triết lý giáo dục Việt Nam - “Giáo dục vị nhân sinh”

15:03 28/11/2018

“Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải là những con người nói theo khuôn, làm theo mẫu như thực tế đã và đang diễn ra”, Nhà giáo Ưu tú Vũ Thế Khôi nêu ý kiến.

Dân tộc, dân chủ và khoa học

-Thưa ông, sinh thời, ông có nghe cha mình - Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục (nay là Bộ Giáo dục và Đào tạo) đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Vũ Đình Hòe nói đến triết lý giáo dục Việt Nam?

- Tôi chưa từng nghe cha tôi nói cụm từ “triết lý giáo dục”, song ông luôn theo đuổi “giáo dục vị nhân sinh”. Trên thực tế, khoảng một tuần sau khi giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục, cụ đã đề xuất với Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cải cách giáo dục: Thay thế hẳn nền giáo dục vị học thuật (kiểu Pháp - đào tạo những bậc tài hoa) bằng nền giáo dục vị nhân sinh (kiểu Anh - Mỹ, đào tạo những nhà hành động, sớm phân chuyên ngành, phân từ rộng đến hẹp, sớm dạy nghề sát với yêu cầu xây dựng kinh tế và chú trọng dạy đạo làm người). Điều  này đã được ghi lại trong cuốn sách “Hồi ký Vũ Đình Hòe”.

Sau đó, cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy thác làm báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội ngày 30.10.1946 về những việc đã làm được. Trong công tác giáo dục, cụ Hòe đã trình bày quan điểm: Nền giáo dục của nước Việt Nam mới xây dựng trên 3 nguyên  tắc cơ bản, đó là dân tộc, dân chủ và khoa học. Tôi thiết nghĩ, quan điểm này thể hiện triết lý “giáo dục vị nhân sinh” mà cụ đề xuất và được Chủ tịch Hồ Chí Minh chấp thuận.

- Cụ thể, “giáo dục vị nhân sinh” theo quan điểm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đầu tiên Vũ Đình Hòe được thể hiện như thế nào?

“Giáo dục vị nhân sinh” phải nhằm trang bị cho thanh niên những kiến thức và kỹ năng cần thiết để mưu sinh có lợi cho mình và có ích cho xã hội. Bởi cụ quan niệm “kiến thức chỉ là phương tiện của giáo dục, cứu cánh của giáo dục là hoạt động, là sống”, tức phải đào tạo ra những con người biết sống trong cộng đồng và biết làm việc phục vụ cho chính cuộc sống của bản thân và xã hội. Vì thế, giáo dục phải có tính hướng nghiệp. Cụ cùng các học giả khi ấy đã xây dựng hệ thống giáo dục tương ứng.

Cụ thể, ngay sau bậc Tiểu học đã có đầu ra. Bởi nước nhà mới giành độc lập, nhiều em vào học lớp Nhất (lớp 1) đã 12 - 13 tuổi. Do vậy, sau 4 năm học thì phải lo cho các em không có điều kiện học tiếp được học một năm “tuyển trạch”, tức hướng nghiệp, để trở thành công nhân, nông dân… có học thức. Với những em học tiếp lên cấp II, cấp III, cứ hết cấp lại có lối rẽ sang các khóa học tuyển trạch. Hệ thống giáo dục này đã được thể hiện qua sơ đồ của Hội đồng Cố vấn học chính được Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh thành lập.

- Trong bài báo cuối cùng của cụ Vũ Đình Hòe đăng tháng 2.2011, trước khi cụ mất gần một tháng, cụ nhắc lại:“Mong nền giáo dục của ta thực sự là “giáo dục vị nhân sinh”, nghĩa là phục vụ các nhu cầu thiết thực của mỗi con người về vật chất cũng như tinh thần…”. Trên thực tế, theo ông, giáo dục của chúng ta có thực sự “vị nhân sinh”?

- Cho đến khoảng những năm 1948 - 1949 vẫn cứ hết một cấp học lại có lối rẽ với chương trình hướng nghiệp cho học sinh. Sau đó, chúng ta thực hiện cải cách giáo dục theo hướng giáo dục toàn diện, học một lèo đến hết lớp 7, sau đó là lớp 9 rồi lớp 12 như bây giờ. Song, nhìn vào việc rất nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường thất nghiệp, tôi không thấy giáo dục “vị nhân sinh” nữa.

Giáo dục phải phục vụ cuộc sống

- Theo ông, nền giáo dục Việt Nam đang theo triết lý nào?

- Với tôi, đây là câu hỏi khó trả lời. Bởi lẽ, đến bây giờ, dường như chúng ta vẫn lúng túng trong cải cách giáo dục mà nguyên nhân bởi chưa có một triết lý giáo dục được phát biểu rành rọt, thống nhất và phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta không có triết lý giáo dục, chỉ tiếc rằng nó không phải “giáo dục vị nhân sinh” của buổi đầu dựng nước!

- Trong bối cảnh hiện nay cũng như dự báo xu thế phát triển sắp tới, ông đề xuất triết lý giáo dục Việt Nam là gì?

- Để xây dựng một triết lý giáo dục mang tính thống nhất, rõ ràng đòi hỏi sự tham gia của nhiều người. Song, theo tôi, nền giáo dục cần lấy mục tiêu cuối cùng là phục vụ cuộc sống, tức phải đào tạo ra những con người hành động, sáng tạo, chứ không phải nói theo khuôn, như thực tế đã và đang diễn ra.

- Xin cảm ơn ông!

Theo Vũ Thủy - ĐBND
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "

  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • (Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!