Bàn về huyền thoại, truyền thuyết trong văn xuôi Aitmatốp

14:08 31/03/2010
HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.

Nhà văn Aimatốp - Ảnh: pilot.vn

Có thể khẳng định rằng, nét đặc trưng trong sáng tác của Aitmatốp là sự hòa quyện một cách nên thơ giữa tư duy tiểu thuyết mang tính sử thi với những hình thức nghệ thuật dân gian của dân tộc Kirghidia. Khi nói về vai trò của phônclo đối với văn học hiện đại, Aitmatốp viết: "Có thể nói rằng, khả năng tiềm tàng của huyền thoại đã nuôi dưỡng nền văn hóa hiện đại. Đó là một thứ mật ngọt của đời sống tinh thần, của lòng quả cảm và niềm hy vọng của con người" (1).

Huyền thoại và truyền thuyết trong tác phẩm của Aitmatốp được nhà văn chắt lọc từ trong vốn văn học dân gian và chỉ sử dụng những chi tiết, yếu tố mang ý nghĩa đạo đức, góp phần đào sâu thêm mặt triết lý của tác phẩm và thể hiện chiều sâu tâm lý nhân vật. Mặt khác, việc đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm được nhà văn kết hợp nhuần nhuyễn với việc phản ánh đời sống hiện tại, tạo cho nhà văn có một phong cách độc đáo. Tác giả tâm sự: "Cội nguồn của thái độ đam mê vô độ của tôi đối với thế giới loài vật có cội rễ từ phônclo dân tộc Kirghidia", bởi vì "phônclo Kirghidia đầy rẫy loài vật vì đó là phônclo của những người chăn súc vật" (2).

Trong tác phẩm của Aitmatốp, huyền thoại, truyền thuyết có ý nghĩa hướng thiện và khi đặt bên cạnh đời sống các nhân vật thì nó có tác dụng thanh lọc về mặt đạo đức.

Bài ca của người thợ săn trong Vĩnh biệt Gunxarư kể về số phận bi kịch của cha con người thợ săn dẫn đến cái chết của người con và nỗi đau xót đến cực độ của người cha phải tự tay giết con mình. Khi đặt huyền thoại trên bên cạnh cái chết của Trôsô và thái độ ăn năn hối lỗi trong cách cư xử của Tarabai, nhà văn không chỉ nhằm bộc lộ điều sâu kín trong tính cách nhân vật, mà còn là bài học, là tấm gương cho con người hiện đại nếu có thái độ hủy diệt đối với thiên nhiên sẽ chuốc lấy hậu quả không lường hết được.

Trong Con tàu trắng, huyền thoại trở thành trung tâm cấu trúc cốt truyện của tác phẩm. Ở đây các lớp huyền thoại đan chéo với các lớp hiện thực có tác dụng tương hỗ lẫn nhau đã tạo cho tác phẩm vừa mang âm điệu du dương, lãng mạn vừa hiện thực, đồng thời góp phần mở rộng các yếu tố của cốt truyện. Trong suy nghĩ của ông già Môman và trong tâm hồn ngây thơ của cậu bé luôn nuôi dưỡng những câu chuyện huyền thoại về loài Mẹ hươu rừng Maran - vật thủy tổ theo truyền thuyết dân tộc Kirghidi.

Đó là hình ảnh tượng trưng mang nhiều ý nghĩa, thể hiện mối quan hệ của con người với thiên nhiên, con người với quá khứ, truyền thống và hiện đại, văn học dân gian với văn học hiện đại...

Như vậy, theo Aitmatốp, những quan niệm mang nội dung nhân đạo, có ý nghĩa nhân loại tồn tại với thời gian và không bao giờ mất đi trong đời sống thường ngày và ngay cả trong ký ức của nhân dân. Nhà văn đã khẳng định: "Kẻ nào quên quá khứ ắt buộc phải xác định lại chỗ đứng của mình trên thế giới, kẻ nào bỏ quên kinh nghiệm lịch sử dân tộc mình và của các dân tộc khác sẽ bị loại ra khỏi bước phát triển lịch sử và chỉ có khả năng sống với ngày hôm nay"(3).

Nếu những câu chuyện huyền thoại về con tàu trắng, về loài hươu Maran đã nuôi dưỡng tâm hồn ngày thơ trong sáng luôn hướng thiện của cậu bé thì hành động giết loài hươu Maran của Ôrôđơkun là trái với đạo đức, chà đạp thô bạo tín ngưỡng nhân dân và tất yếu sẽ bị trừng trị đích đáng. Phải chăng, qua đây Aitmatốp muốn nhắn gửi rằng, người đời đừng động chạm đến những cái thiêng liêng trở thành phong tục, tập quán của dân tộc được giữ gìn và bồi đắp qua nhiều thế hệ và con người đừng tàn ác với thiên nhiên?

Con chó khoang chạy ven bờ biển có sự pha trộn của đời sống hiện thực và những câu chuyện lãng mạn, huyền thoại. Ở tác phẩm này, Aitmatốp đặt ra nhiều vấn đề mang tính vĩnh hằng của con người: trách nhiệm của các thế hệ, lòng nhân ái, đức hy sinh... Tất cả những cái đó được nhà văn khoác lên một màu sắc mang tính huyền thoại làm cho tác phẩm vừa thực vừa hư, lung linh huyền ảo. Câu chuyện huyền thoại về người đàn bà cá vĩ đại trong Con chó khoang chạy ven bờ biển thể hiện quan niệm của tác giả về cái đẹp của cuộc sống con người, đặc biệt vẻ đẹp của người phụ nữ một kỳ quan tuyệt diệu được thượng đế ban phát cho loài người. Hành động hy sinh của ông già Organ để cứu bố con Kirxki (thế hệ con và cháu) mang giá trị nhân bản, biểu hiện một cách xử thế chuẩn mực về đạo đức. Khi Organ rời thuyền nhảy xuống biển trong màn sương dày đặc, mênh mông không phải ông tìm về với cõi vĩnh hằng mà là để toại nguyện giấc mơ về người đàn bà cá đã từ lâu ông ấp ủ. Sự hy sinh của Organ chỉ có ý nghĩa về mặt thể chất, còn hành động của ông đã trở thành truyền thuyết cho các thế hệ sau.

Huyền thoại và truyền thuyết còn xâm nhập ngày càng nhiều trong một số tác phẩm về sau của Aitmatốp (Và một ngày dài hơn thế kỷ, Đoạn đầu đài...). Chính những truyền thuyết và huyền thoại như: truyền thuyết tên nô lệ Mankur, truyền thuyết về loài chim Đônenbai, chuyện về gia đình với Acbara và Tachainar... đặt lên cạnh câu chuyện về đời sống hiện thực đã làm cho hai tác phẩm trên vừa mang tính sử thi vừa gia tăng tính triết lý sâu sắc.

Trung thành với cảm hứng nhân đạo, được nuôi dưỡng bằng vốn văn hóa dân tộc Kirghidia, dân tộc Nga và thế giới, Ch.Aitmatốp luôn khát khao vươn lên ngang tầm với thời đại trong việc nhận thức thế giới để thể hiện những vấn đề vừa mang tính nhân đạo, vĩnh hằng vừa mang tính thời sự. Những giá trị tinh thần mà nhà văn - nhà nhân đạo Aitmatốp đã cống hiến cho nhân loại vào cuối thế kỷ XX vẫn luôn được lưu giữ trong kho tàng văn học nhiều dân tộc trên thế giới. Bởi vì, đúng như nhà phê bình văn học N. Pôtapốp khẳng định, nhà văn Aitmatốp "... biết lắng nghe tiếng nói của tổ tiên vang vọng trong những cảm xúc về cái đẹp, trong những quan niệm về ý nghĩa của cuộc đời cũng như thực chất của con người, tiếng bước chân của lịch sử, trong những trang sử thi không bao giờ mai một, trong những truyền thuyết và những điệu dân ca mộc mạc..."(4).

H.V.L
(135/05-00)


----------------------------------------------------
(1) Báo Văn học, ngày 25 - 3 - 1978
(2) Báo Văn học, ngày 13 - 8 - 1986
(3) Lời tác giả đăng trong
Một ngày dài hơn thế ky, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí Minh, 1986, trang 11.
(4) N. Pôtapốp.
Thế giới của con người và con người trong thế giới, đăng trong phần cuối Một ngày dài hơn thế kỷ, Sđd, trang 525.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.