Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ảnh: internet
Hiện nay bài thơ cũng được chọn vào chương trình Ngữ văn 10 của bậc THPT và lấy tên gọi là Nhàn. Bài thơ như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây đa sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
Bài thơ nôm na, dung dị, không dùng từ Hán - Việt và điển cố cầu kỳ. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có nhận xét chung về thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau: Văn chương ông tự nhiên, nói ra là thành, không gọt dũa, giản dị mà linh hoạt, không màu mè mà có ý vị, đều có quan hệ đến việc dạy đời. Bài thơ đã được trao đổi, phân tích, bình giảng của nhiều nhà giáo, giáo sư, cán bộ nghiên cứu, nhà thơ và cả những người yêu thích văn chương nữa. Phần lớn các ý kiến phân tích đều có sức thuyết phục và đã giúp cho các em học sinh hiểu được một cách sâu sắc hơn quan niệm sống của nhà thơ (chữ Nhàn) qua đó thấy được nhân cách và những nét đặc trưng trong phong cách thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm (giọng điệu trữ tình kết hợp với chất triết lý). Thế nhưng cũng có một vị Phó GS đã gán ghép cho cụ Trạng và bài thơ hàng loạt điển cố xa lạ của Tàu[1]. Ông cho rằng người soạn sách giáo khoa giảng cho các em học sinh mai để đào đất, cuốc để xới đất, cần câu để bắt cá là sai, mà phải hiểu như ông là khi phá đề Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy ngay điển từ Nhạc phủ - bài Kích nhưỡng ca để mở đề: “Tạc tỉnh nhi ẩm, canh điền nhi thực, nghĩa là đào giếng mà để uống, cày ruộng mà để ăn”. Ông còn trích dẫn tràng giang đại hải tư tưởng Mặc Tử, Trang Tử, Hàn Phi Tử. Về chữ cần câu tác giả bài viết này cũng buộc cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm không được dùng lưỡi câu bình thường và mồi câu thơm như ở quê nhà mà phải câu lưỡi thẳng như cụ Lã Vọng trong lịch sử cổ đại Trung Hoa. Ông gán cho Nguyễn Bỉnh Khiêm điển Trang Tử về cần câu và dẫn bài Trúc Can trong Kinh Thi để minh họa. Sự gán ghép trên đây quả là khiên cưỡng, bởi vì Lã Vọng ngồi câu với lưỡi câu thẳng là để chờ thời và cuối cùng cụ đã đạt được mục đích là giúp Vũ Vương diệt Trụ lập nên triều đại nhà Chu, còn cụ Trạng của chúng ta thì đã từ quan về ở ẩn ở chốn quê nhà, lấy chữ nhàn làm lạc thú nhìn xem phú quý tựa chiêm bao thì việc gì cụ lại phải bắt chước Lã Vọng. Vị PGS này còn xúc phạm những người viết sách giáo khoa là vẹt hót khi họ phân tích: Bốn mùa xuân, Hạ, Thu, Đông, mùa nào nào thiên nhiên cũng là môi trường sống thanh tao:
Thu ăn mang trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Hai câu là bộ tranh tứ quý, có cảnh, có người, có mùi vị, có hướng sắc.
Măng trúc và giálà hai loại thức ăn bình dân, quê kiểng bao đời nay, cần gì phải đi tìm gốc gác trong kho thư tịch cổ ngổn ngang của Tàu và trích dẫn lời Mã Viện (14TCN đến 49SCN)- một tên tướng đã từng xâm chiếm và cai trị nước ta - cho rằng, vị măng đông ngon hơn măng cuối xuân, hoặc dẫn chứng những câu chuyện có liên quan đến măng của các danh nhân cổ đại Trung Quốc chẳng dính líu đến câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cái kiểu bình luận văn chương theo lối nói lấy được để phô trương kiến thức biến con chuột thành con voi đã làm cho vị PGS đi quá đà đẩy câu thơ cụ thể của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm lên một phạm trù triết học trừu tượng, siêu hình, thú thật tôi cũng không hiểu ông ta định nói gì, xin ghi lại đây để độc giả tham khảo:
“Câu đầu, Nguyễn Bình Khiêm đưa ăn lên trên và đặt song trùng: ăn (măng)// ăn (giá). Đấy là hình nhi hạ. Câu sau, thi nhân vẫn dùng phương pháp sóng đôi: tắm (hồ)// tắm (ao). Đây mới là hình nhi thượng. Hai câu luận song song đối nhau. Nhưng ngay trong mỗi câu, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chặt đôi: hình nhi thượng trước (măng trúc)// hình nhi hạ sau (giá). Măng trúc do trời ban, thiên nhiên ban; còn giá bởi con người vất vả làm ra. Câu sau vẫn lối cấu trúc: Hình nhi thượng trên - hồ sen do ông xanh tạo hóa, ông ban cho được tắm hương trời; mà nếu, ông xanh không cho thì vui vẻ trở về tắm ao (cũng có thể tắm ao tù) - Hình nhị hạ dưới. Con người tự làm, chẳng phái đội Thiên tử (!).”
Trở lại chữ giá mà tác giả Nguyễn Cẩm Xuyên đề cập đến trong bài viết của mình chúng tôi xin có ý kiến như sau: Trong cấu trúc chữ Nôm có một loại đọc theo âm Hán - Việt nhưng không lấy nghĩa mà chỉ lấy âm. Chẳng hạn một số câu trong Truyện Kiều:
Trăm năm trong cõi người ta (些)
Trải qua (戈) một cuộc bể dâu
Tà tà bóng ngả (我) về tây
Đi đâu (兜) chẳng biết con người Sở Khanh
Chữ ta (些) tiếng Hán có nghĩa là ít, một ít, chữ qua (戈) là một binh khí ngày xưa; ngã (我) là ta, tôi; đâu (兜) cái mũ ngày xưa lúc ra trận; nghĩa của những chữ Hán trên đây không liên quan gì đến nội dung câu thơ, mà chủ yếu là mượn âm đọc.
Chữ giá (蔗, 稼) mà ông đề cập đến trong bài viết cũng thuộc loại này, cho nên không thể hiểu câu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm là Thu ăn măng trúc, đông ăn mía hay ăn mạch nha được, mà chỉ có một cách đọc và hiểu duy nhất là Thu ăn măng trúc, đông ăn giá (giá đỗ) và lại càng không thể hiểu là băng giá hay nước đá như ông đã phân tích.
Chữ Nôm của các cụ trước đây chưa được điển chế và qui chuẩn hóa, nên một âm có thể viết được nhiều cách tùy trình độ từng người, một chữ cũng có thể được đọc khác nhau, tùy theo từng văn cảnh cụ thể và cảm nhận của từng người, chẳng hạn như chữ nghỉ/nghĩ, nêm/nen, nét ngài/nét người... trong Truyện Kiều.
Một điều đng chú ý nữa là khi thưởng thức văn chương trung đại, ta không nên phân tích quá tỉ mẩn theo con mắt của nhà khoa học hiện đại, như có người đã cố đi tìm cho được hệ đo lường của Trung Quốc thời xưa để xác định chiều cao của Từ Hải trong Truyện Kiều. Măng trúc và giá trong câu thơ, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chỉ muốn đề cập đến những món ăn dân dã, quê kiểng và cái thú tắm ao, tắm hồ ở nông thôn khi cụ về ở ẩn tìm thú an nhàn thế thôi, chứ cụ đu có suy nghĩ theo kiểu hàn lâm ăn măng/ăn giá là hình nhi hạ, tắm hồ/tắm ao là hình nhi thượng (!) hay đi câu với lưỡi câu thẳng như người ta đã gán cho cụ.
[1]Xin xem bài đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 4/2009 của Nguyễn Đăng Na có nhan đề Về bài thơ số 79 của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguồn: Thế Anh - VHNA
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Trên Tạp chí Sông Hương số 379 (9/2020) và Báo Thừa Thiên Huế, tôi đã có giới thiệu lại cuốn “Truyện Kiều, bản Nôm của Hoàng gia triều Nguyễn, lưu trữ tại thư viện Anh quốc” do Nguyễn Khắc Bảo công bố (Nxb. Lao động ấn hành, 2017).
NGUYỄN THANH TÂM
Trương Đăng Dung làm thơ từ cuối thập niên 70 của thế kỷ trước. Thầm lặng, con người thi ca ấy ẩn khuất sau dáng vẻ của một nhà lý luận, để hơn 30 năm sau, cựa mình trỗi dậy.
HOÀNG THỊ THU THỦY
Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (04/10/1920 - 04/10/2020)
LÊ TUẤN LỘC
MAI VĂN HOAN
Trải qua hàng nghìn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, họ tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta nhưng bất thành. Chúng ta có chịu ảnh hưởng về tư tưởng, về giáo dục, về văn hóa, nghệ thuật… của họ nhưng dứt khoát không bị đồng hóa.
LƯỜNG TÚ TUẤN
“Thì đem vàng đá mà liều với thân” - Nguyễn Du
Kỷ niệm 255 năm ngày sinh (1765 - 2020), 200 năm ngày mất Danh nhân văn hóa thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du (16/9/1820 - 16/9/2020)
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
ĐỖ LAI THÚY
Trong mọi địa hạt, sự đắc thắng của cuộc sống là sáng tạo
H. Bergson
BỬU Ý
Nguyễn Đức Sơn sinh 18/11/1937 tại làng Dư Khánh (Thanh Hải) gần bên bờ biển Ninh Chữ tỉnh Ninh Thuận.
LÊ THÀNH NGHỊ
Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ xuất hiện từ đầu những năm bảy mươi của thế kỷ XX, khi chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt trên cả hai miền đất nước. Quảng Bình, quê hương của Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong những vùng đất bom đạn tàn khốc nhất.
NGUYỄN HỮU QUÝ
Biển. Những con sóng. Những con sóng làm nên biển cả mênh mang. Hay diễn đạt cách khác, biển bắt đầu từ sóng.
LÝ HOÀI THU
Lưu Quang Vũ mở đầu sự nghiệp cầm bút bằng thơ. Đó là phần Hương cây trong tập Hương cây - Bếp lửa in chung với Bằng Việt.
THÁI HẠO
Tặng Mẹ và Em!
Bờ bến lạ chút tự tình với bóng - Tuệ Sỹ
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nguyễn Thị Lê Na không thuộc lớp “cây bút trẻ” (chị sinh đúng vào năm đất nước thống nhất - 1975), lại phải gánh nhiệm vụ quản lý một tạp chí văn nghệ, nên sau “Bến Mê”, đến nay chị mới xuất bản “Đắng ngọt đàn bà”(*) (ĐNĐB).
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).
NGỌC BÍCH
(Đọc "Thơ Ngô Kha"*)
Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).
PHẠM TRƯỜNG THI
Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.
HỒ HUY SƠN
Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.