Bàn về bạn

09:21 17/04/2009
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

Tác phẩm của ông gồm hơn mười tập tản văn, như NHÃ XÁ TIỂU PHẨM, THU THẤT TẠP VĂN, HOÀ VIÊN MỘNG ỨC, NHÃ XÁ ĐÀM THỰC... Ông còn là Nhà phê bình văn học với những tác phẩm: LÃNG MẠN VÀ CỔ ĐIỂN, KỶ LUẬT CỦA VĂN HỌC, CHỦ NGHĨA NHÂN VĂN VÀ BABBIT.IRVING . Ông còn phiên dịch SẾCH PIA TOÀN TẬP sang tiếng Trung Quốc.

Bạn bè xếp thứ cuối cùng của Ngũ Luân (Năm mối quan hệ: Vua tôi, cha con, anh em, chồng vợ và bạn bè, ND), thật ra bạn bè là mối quan hệ rất quan trọng. Điều gọi là hữu nghị, thực tế là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và con người, trong đó bao gồm nhiều đức tính đẹp như thông cảm, tán thưởng, tin cậy, chấp nhận, hy sinh...Nếu lấy hữu nghị làm nền tảng thì các mối quan hệ khác như bố con vợ chồng anh em, đều có thể xây dựng một cách trọn vẹn. Đương nhiên bố con anh em là quan hệ vĩnh cửu không thể lựa chọn, vợ chồng tuy có khoảng trống lựa chọn, nhưng một khi đã kết hợp, thì lấy không bao giờ ly tán làm nguyên tắc, còn bạn bè thì có đoàn tụ, có chia ly. Nhưng nói thẳng ra, bố con vợ chồng anh em đều là quan hệ bạn bè, chỉ hơi khác về hình thức tính chất mà thôi, nói một cách nghiêm chỉnh, phàm những ai có điều kiện của một người bạn tốt, người vợ tốt, người anh tốt, người em tốt và ngược lại cũng thế.

Các bậc thánh hiền ngày xưa của chúng ta luôn luôn hết sức chú trọng tình bạn. Trong “luận ngữ” có rất nhiều câu nói về tình bạn. Ở phương Tây cũng như vậy, Marcus Tullius Cicero của La Mã có một bài nổi tiếng “Bàn về hữu nghị”, Michel Eyquem de Montaigne của Pháp, Roger Bacon của Anh, Ralph Waldo Emerson của Mỹ, đều có những bài viết bàn về hữu nghị. Tôi cảm thấy các nhà văn cận đại hình như không chịu tốn nhiều bút mực về đề tài này. Đây liệu có phải là tượng trưng tình
hữu nghị của thế hệ thứ ba thứ tư đã suy tàn? Tôi không dám nói.

Cái gọi là “Kết bạn cắt cổ” thời xa xưa, nói ý nghĩa cao xa quá, con người phi thường mới mong đạt được. Như Damon và Pythias, Đavid và Jonathan, e rằng cũng chỉ là những lời nói hay trong truyền thuyết mà thôi. Cho dù hạ thấp tiêu chuẩn hữu nghị xuống chút ít, thì cũng rất hiếm được gọi là bạn bè chân chính. Thử nghĩ, nếu có chuyện tiền bạc qua tay, thì bạn bè ai tin cậy liệu có được mấy người? Trong khi anh đau yếu hoạn nạn, hoặc long đong vấp váp, liệu có mấy người bạn chịu đến nhà thăm hỏi, thậm chí cưu mang, đem than đến cho anh sưởi ấm trong mùa đông giá rét? Khi anh đi công tác xa, liệu có mấy người chịu chăm nom cô vợ yếu đuối của anh, mà không chăm nom quá đáng? Lại xin hỏi, liệu có mấy ai xưa nay ăn mận trả đào, không làm những điều trái lương tâm, duy trì được lâu dài, không bị rơi rụng? Bạn từ lúc để chỏm, nếu không có quan hệ lợi hại đặc biệt để gắn bó, thì sau vài năm có lẽ dễ trở thành người dưng. Benjamin Franklin, nhà khoa học Mỹ nói: “Có ba người bạn trung thực tin cậy, đó là vợ già, chó già và khoản tiền mặt”. Điều kỳ diệu là cả ba người bạn ấy đều không phải bạn. Aristotle còn nói thẳng thừng hơn: “Hỡi các bạn của ta, trên thế giới chẳng làm gì có bạn”. Những câu nói này gần như bất mãn chán đời, thực tế trên đời vẫn còn có bạn, nhưng tuy không cần xách đèn lồng đi tìm, song chẳng khác nào đãi cát lấy vàng, mà còn phải luyện trong thời gian dài. Một khi đã đúc thành hữu nghị thật sự, sẽ bền như vàng đá, không bao giờ phai nhạt.

Đại thể, vật họp theo loài, người chia theo bầy, tính khí hợp nhau, mới có thể tốt với nhau mãi. Kết bạn cũng coi trọng môn đương hậu đối, cho dù không khắt khe như trong cửu phẩm, đương nhiên cũng có đường ranh giới. “Đồng học thiếu niên đa bất tiện, Ngũ Lăng Cầu Mạ tự khinh phì”, ngoài chuyện” Tự khinh phì”, còn có thể không liếc mắt nhìn lên lông mày bạn cũ ngày xưa hay sao? Hán Quang Vũ cho phép Nghiêm Tử Lăng đè đùi lên bụng mình, cố nhiên là độ lượng rộng lòng, nhưng Nghiêm Tử Lăng vẫn kiên quyết về ở ẩn tại núi Phú Xuân, là rất biết tiến lùi, được lòng người. Chu Hồng Vũ viết thư cho bạn nói:” Chu Nguyên Chương đã làm Hoàng đế, Chu Nguyên Chương vẫn là Chu Nguyên Chương...”. Cho dù lời nói rất hay, nhưng chứng kiến việc giết hại công thần sau này của ông ta, cũng không khỏi khiến ai nấy rùng mình sởn tóc gáy. Thân thể và trái tim con người vốn cấu tạo như nhau, nhưng một khi bước vào con đường quan lại, có thể sẽ sẩy ra đột biến. Khổng tử nói, vô hữu bất như kỷ giả, tôi nghĩ, một là chỉ trình độ học vấn, hai là chỉ nói không được kết bạn với người xấu hơn mình, không nói nhất định đòi chúng ta leo cao, hữu nghị đòi hỏi cả hai bên tạo dựng, nếu hai bên đều muốn kết bạn với người tốt hơn mình, thì sẽ vĩnh viễn không kết được bạn.

Hình như
Oscar Wilde, nhà văn Anh đã từng nói: “Không thể có hữu nghị tồn tại giữa một nam và một nữ”. Nói chung điều này đúng, bởi vì giữa nam và nữ, nếu có hữu nghị sâu nặng, thì tình hữu nghị ấy dễ biến chất, nếu không phải tâm đầu ý hợp, thì lại không coi là hữu nghị, tốt quá sẽ lốp, khó nắm bắt được giới hạn này. Bạn vong niên thì lại được. Di Hoành chưa đầy hai mươi tuổi, Khổng Dung tuổi đã năm mươi kết bạn với nhau. Những ví dụ thế này có ghi trong sách. Nhưng hầu như chỉ giới hạn trong đồng tính, mà theo tôi, sự hình thành của tình bạn vong niên vốn dựa vào mức gần gũi lẫn nhau của niềm hứng thú và tài năng đức độ, tán thưởng lẫn nhau, nhưng bên lớn tuổi ít nhiều cũng tỏ ra phần nào chín chắn. Tỏ ra già cỗi thâm trầm, khiến người ta trông vào mà sợ, khôn ngoan láu lỉnh, thì người ta rái, nhé tránh. Những người độc thân dễ kết bạn, bởi vì tình bạn của họ không có chỗ gửi gắm, trong cảnh phiêu bạt lẻ loi, rất cần một đối tượng dễ dãi bày nỗi lòng, nhưng đến khi anh ta có gia đình vợ con, có kẻ hầu người hạ thì nỗi lòng đã khác.

“Quân tử chi giao đạm như thủy” (tình bạn của bậc Quân tử nhạt như nước), bởi vì nhạt, cho nên mới không ngán, mới lâu dài. “Dữ bằng hữu giao, cửu nhi kính chi” (chơi với bạn bè, lâu bền mà vẫn kính trọng), kính tức là giữ khoảng cách, hay nói cách khác là phòng quá ư thân mật. Nhưng “Hạp nhi kính chi” (Cặp kè gần gũi mà vẫn kính trọng) là rất khó. Điều phải chú ý nhất là không được chi quá thu trong tình bạn, phải luôn giữ có chừng mực. Mark Twain nói: “Tình hữu nghị thiêng liêng, mang tính chất ngọt ngào, ổn định, trung thực, lâu dài như vậy, có thể giữ suốt đời nếu không há mồm vay tiền bạn”. Đây đúng là lời nói khẳng khái. Bạn bè vốn thông cảm về chuyện tiền nong, nhưng đây là việc hết sức tế nhị! Chuyện khó quên nhất trên đời là khoản tiền cho vay, ta thường nhận xét chuyện xúi quẩy nhất không gì hơn là trả tiền, một khi đã dính đến tiền, thì ân oán rất khó thanh toán rõ ràng, biết bao nhiêu tình bạn đều đã bị bức tường này chặn lại trong khi đang phát triển!.

Khuyên nhủ vẫn là điều cần phải làm trong tình bạn, nhưng nói ra đâu có dễ. Trong môi trường danh lợi, cùng một duộc xấu xa, ngay đến chính mình cũng khó làm rõ đúng sai, còn hơi sức đâu khuyên nhũ người khác? Mà phía đối phương, thì lại hay đắng miệng, trung ngôn nghịch nhĩ, có ai lại muốn để người ta vạch ra cái xấu của mình? Khuyên nhủ không thể làm trước mặt người thứ ba để giữ thể diện cho bạn, không thể làm khi tâm tư bạn đang rối bời để tránh lửa đổ thêm dầu. Khổng tử nói: “Trung cáo nhi thiện đạo chi, bất khả tắc chỉ” (Lời khuyên chân tình và thiện chí mà không nghe thì thôi). Tôi thường cho rằng, khuyên điều thiện, ngăn điều lỗi là tác dụng tiêu cực của tình hữu nghị. Niềm vui của hữu nghị là tích cực. Chỉ có Thần Tiên và dã thú mới thích cô độc, con người cần có bạn bè. "Giả dụ một người lên trời một mình, nhìn thấy cảnh quan bao la hùng vĩ của vũ trụ và cảnh đẹp của các chòm sao, anh ta vẫn không cảm thấy vui, anh ta cần phải tìm một người để kể lại cảnh lạ đã nhìn thấy mới vui được”. Cùng hưởng niềm vui, so với cùng chịu hoạn nạn càng nên là điều thú vị trong tình bạn bình thường.

VŨ CÔNG HOAN dịch
(201/11-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.