Bàn về “Tính duy lý” của văn xuôi và “Tính phi lý” của thơ

09:20 03/06/2008
Ông Eđuar Điujacđen là một nhà thơ có tài và có thể nói là được hâm mộ trong số các nhà thơ thuộc thế hệ già - người vẫn giữ được tình cảm và sự khâm phục cuồng nhiệt của lớp trẻ, đã mở đầu một cuộc thảo luận về thơ.

Cuộc thảo luận ấy đang tiếp diễn. Và cuối cùng qua cuộc thảo luận ấy, một loạt các “luận văn” đã được tập họp - đó là những bài báo có mục đích tập trung lý giải giới hạn và đặc thù của thơ ca hiện đại. Cuộc thảo luận ấy đã nêu bật lên được khá nhiều vấn đề quan trọng về mối tương thuộc giữa nghệ thuật và đời sống. Và chúng ta cũng nhân cơ hội này cùng nhau hãy “chui vào” “khu vườn thơ ca” - một khu vườn hoa lệ nhất, nơi con người chú tâm vun trồng nhiều hơn bất cứ nơi nào. Cuộc thảo luận do ông Eđuar Điujacđen khơi ra, đã nêu lên được một vấn đề cốt tử của thơ: về số phận của trí tưởng tượng, về tính chủ thể, những vấn đề vốn dễ chấp nhận trong thơ hơn trong các lĩnh vực khác.
Nhưng trong cuộc thảo luận đó không phải mọi vấn đề nêu lên hẳn đã làm chúng ta quan tâm và thú vị như nhau. Cái mà chúng ta quan tâm chủ yếu là đi tới được một định nghĩa khúc chiết nhằm đưa đến một quan niệm độc đáo về nghệ thuật thơ ca - một phạm vi vốn thu hút và là cơ sở của nhiều ý kiến khác nhau trong cuộc thảo luận. Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Pháp, Bremôn đã đưa ra một định nghĩa, một lý thuyết về thơ, đăng có thể chấp nhận được và thực tế đã được nhiều nhà văn tán thành, ủng hộ. Lý thuyết đó cố gắng chỉ ra giới hạn sâu xa và bền vững của thơ ca, hay nói đúng hơn và chính xác hơn là đã đào một “hố ngăn cách tuyệt đối” giữa thơ và văn xuôi. Nếu ta đồng ý với lý thuyết mới mẻ này thì sẽ đi tới một quan niệm cho rằng sự giống nhau bất kỳ nào giữa hai thể loại đều loại trừ lẫn nhau quyết liệt, thơ và văn xuôi do đó không hề giống nhau, không chỉ là về hình thức mà còn về nội dung, không chỉ về những dấu hiệu bề ngoài mà cả về bản chất của mình. Vì thế mà từ nay về sau, theo lý thuyết của Bremôn - Khi “giáo huấn” “thuyết phục” chúng ta, văn xuôi cần phải tự giới hạn mình trong những cách thể hiện “hợp lý” các tư tưởng; còn thơ thì cần để dùng trong trường hợp đặc biệt hơn, vì nó không thể hiện tư tưởng một cách “hợp lý” được. Đối tượng của thơ cần phải là cái không thể diễn tả được.
Chúng ta khó có thể đồng ý với định nghĩa trên, vì nó có tính áp đặt, võ đoán, tùy tiện, giả tạo và nguy hiểm nữa. Sự phân định ấy rõ ràng dựa trên một nguyên tắc chưa thỏa đáng, thiếu căn cứ khoa học, không thuyết phục. Vì thế nhiệm vụ của chúng tôi là chỉ ra dấu hiệu chung nhất phân biệt thơ và văn xuôi. Sự phân định trên như đã nói, không thừa nhận trong văn xuôi quyền tồn tại của “mộng mơ” và “tưởng tượng”. Sự phân định trên đã làm cho thơ không hòa vào được với âm nhạc và dẫn nó đến sự tuyệt giao tận cùng với văn học.
Một thực tế hiển nhiên là: Thơ là một nghệ thuật - một nghệ thuật “thẩm” nhạc rất sâu sắc. Hình thức của thơ vốn được phú cho rất nhiều cách thức khác nhau bằng ngôn từ để thể hiện nhịp điệu chính của mình, và luôn được bồi đắp thêm các cách thức ấy, và do đó nó không thể thiếu được các yếu tố màu nhiệm mà âm nhạc vốn có. Song từ đó hoàn toàn không thể rút ra kết luận rằng, thơ nói chung và những bài thơ câu thơ cụ thể chỉ còn lại duy nhất là ngôn từ - cái cần để tạo nên một nghệ thuật âm thanh thuần túy. Vì vậy, trong thực chất của mình, thơ là một nghệ thuật ngôn từ - nó là phương tiện, là “tai nhạc” để hướng tới trí tuệ của chúng ta. Mục đích của thơ, do đó cũng như mục đích của các thể loại khác, chính là ở chỗ miêu tảgiải thích.
Không có một nghệ thuật nào có sức mạnh mà lại thiếu lý trí, trí tuệ được. Trí tuệ, lý trí đó là khả năng sáng tạo chủ yếu của tinh thần con người. Và phải nhấn mạnh rằng trí tuệ cũng ảnh hưởng đến âm nhạc thuần túy, dĩ nhiên một cách kín đáo và sâu sắc hơn ở các loại hình nghệ thuật khác.
Một tác phẩm âm nhạc như một “hòa âm” đưa chúng ta vào một thế giới cao cả của những lay động mạnh mẽ về tinh thần tâm hồn; nó tác động trực tiếp và lập tức đến tình cảm chúng ta, nó khơi gợi những tiềm năng sâu kín nhất trong bản thể chúng ta. Quá trình tác động ấy vừa phải được nhìn nhận dựa trên những cơ sở khoa học, vừa trên một quy tắc gọi là quy luật của sự hài hòa. Âm nhạc, có thể nói vẫn tùy thuộc quy luật lôgích cơ bản. Những cuộc thí nghiệm có tính chất “vị lai” trong âm nhạc, thực chất đã tước bỏ, phá hủy cơ sở trí tuệ, lý trí của âm nhạc, do đó tất yếu đưa âm nhạc đến trở thành những “tạp âm vô nghĩa”.
Khi chỉ dựa vào những định nghĩa có tính chất tùy tiện, và bằng phương tiện ấy, người ta sẽ dễ đi đến kết luận rằng cần từ bỏ lý trí, trí tuệ trong thơ, thì cũng có nghĩa là họ đã dẫn thơ đến cái chết một cách nhanh nhất. Bởi vì đối với việc sáng tạo thơ ca - một tác phẩm nghệ thuật ngôn từ - thì chỉ có một nhịp điệu thôi chưa đủ. Nhịp điệu chỉ có giá trị và đầy đủ thường trong lĩnh vực âm nhạc thuần túy, trong sáng tác một bài hát hoặc một bản giao hưởng. Tác phẩm thơ ca dù là truyền miệng hay viết không thể bộc lộ, thể hiện đầy đủ nếu tự giam mình vào trong phạm vi chật hẹp của sự hài hòa nhịp điệu. Tôi xin nói lại: âm nhạc thuần túy vẫn cần lý trí, trí tuệ huống hồ gì thơ ca? Tước đoạt lý trí của thơ là tước đoạt “nền móng” “rường cột” của nó.
Một bài thơ được viết ra là cả một sự lựa chọn ngôn từ, và nó có giá trị khi trong bài thơ ấy, nối liền các câu chữ, xâu chuỗi chúng lại là một ý tưởng nào đó, một liên tưởng nào đó hình thành trong ánh sáng của trí tuệ tại một thời khắc “ngời sáng”. Một bài thơ thiếu sức mạnh trí tuệ thì hiển nhiên sẽ là “phi tư tưởng” và “vô vị”.
Xa rời, đoạn tuyệt với quy luật của trí tuệ, lý trí là không thể được đối với sáng tạo nghệ thuật. Chỉ có trí tuệ mới cho chúng ta khả năng để tạo nên tất cả giá trị tác phẩm - cái vốn không thể thiếu được trong một lĩnh vực không là thật cụ thể và cũng không là thật trừu tượng. Trí tuệ là sức mạnh tổ chức, là chất hữu cơ của sự sống tác phẩm. Và bất cứ một mưu toan nào hạ thấp vai trò trí tuệ cũng nhằm hạ thấp vai trò của nghệ thuật.
Để có khả năng thức tỉnh, lay động tình cảm, tâm hồn con người, thì mỗi tác phẩm thơ ca, dù lớn dù nhỏ, cũng phải có đủ các phẩm chất: tính cân đối, tính nhất quáncó cấu trúc nội tại hợp lý. Tất cả sự đồng bộ ấy tùy thuộc trước tiên vào trí tuệ. Những tình cảm hưng phấn, những xúc cảm trần trụi, trí tưởng tượng tuyệt vời, tình yêu mênh mông - tất cả những cái ấy là sức mạnh tung phá, lay tỉnh của thơ, nhưng nó không phải là “rường cột” của thơ. Mà thơ thì cần phải có “rường cột”.
Thực ra thì trên đây, chúng tôi cũng chỉ mới đề cập đến một khúc đoạn của những trận tấn công vào trí tuệ trong nghệ thuật của những kẻ bảo thủ, phản động phất lên trong các lĩnh vực đời sống tinh thần.
“Hội các nhà truyền thống chủ nghĩa”, “những kẻ bảo vệ lý thuyết” “nghệ thuật vị nghệ thuật”, các vị “linh mục trong văn học” những kẻ tự do chủ nghĩa chính hiệu... đều đã và đang sẽ tự nguyện gia nhập cái “công ty” kỳ cục, cố gắng thuyết phục mọi người tin vào cái lôgích: “Thơ ca chỉ có thể sáng tạo được trong phạm vi cái thế giới trừu tượng, phi lý và “cóc cần đến trí tuệ”. Và cái “công ty” ấy ít nhiều rõ ràng đều phản động về mặt xã hội, tinh thần.
Bởi vì để bảo lưu những “truyền thống cũ” nhất thiết người ta phải củng cố nó, lý tưởng hóa nó, thần thánh hóa nó. Trong mỗi lĩnh vực hoạt động của con người - trong đó văn học nghệ thuật là một - thường đan chéo nhiều truyền thống. Nếu không tỉnh táo sẽ ngộ nhận và rơi vào giả tạo khi sử dụng truyền thống. Quá trình tiến lên của trí tuệ loài người, sự phát triển của ý thức dẫn đến sự giải phóng tinh thần nói chung - và nó là trận tấn công vào những mưu toan có tính chất phản động trong lĩnh vực đời sống tinh thần.
Các cố đạo từ thời xa xưa đã dạy con người: lý trí và lôgích là công cụ của quỷ Xa - tăng (?!). Còn các cố đạo bây giờ thì lại cố gắng đi theo con đường của “linh mục Bremôn” - nghĩa là ra sức truyền bá điều răn trên cả trong nghệ thuật! Họ thường than phiền rằng thơ hiện đại thường hướng tới những chuyện ba hoa, rỗng tuếch, toàn những chuyện bỡn cợt không đứng đắn, hoặc thuần túy là trò chơi chữ. Ai tuân theo điều đó ngoài những môn đệ của họ? Ai ngoài những người mưu toan biến thơ ca thành tiếng kêu tuyệt vọng?
Cũng tương tự như trong lĩnh vực tôn giáo vậy, các phương pháp của khoa học tự nhiên nhằm cố gắng giải thích thế giới và mở rộng trí thức của loài người đều bị xếp xó. Và thay thế vào đó là các khái niệm mà chúng ta gọi là “trừu tượng”. Tôn giáo không giải thích lô - gích và trí tuệ, mà đề cao “tâm linh”. Cả hai trường hợp mà chúng tôi nêu trên đều xuất phát từ khuynh hướng cổ súy cái “trừu tượng” “phi lý” và chống lại tính tích cực cách mạng của tinh thần con người. Nghĩa vụ của chúng ta, nghĩa vụ của mọi người chân chính là phải trở thành một chiến sĩ đấu tranh kiên trì, triệt để trong mọi hoàn cảnh. Nhiệm vụ của chúng ta là chỗ, chúng ta chỉ có một chỗ dựa duy nhất là những học thuyết khoa học, thực tế để chống lại tất cả những lý thuyết đề cao cái gọi là “phi lý trí” - đó là mưu toan cố ngăn cản nhân loại  tiến tới những mục đích chân chính của nó. Chúng ta không công nhận sự thoát ly của tư tưởng khỏi hiện thực, lý thuyết khỏi đời sống. Trí tuệ mà chúng ta bảo vệ không phải là một khái niệm trừu tượng và rỗng tuếch. Nó là một khái niệm tràn đầy sức sống, sinh động. Thiên tài của chủ nghĩa Mác chính là ở chỗ nó biết giữ gìn toàn bộ trí tuệ của mình trong một thực tế hiển nhiên. Có thể nhìn thấy rõ sự ra đời một nền nghệ thuật mới trong xã hội chúng ta và những điều kiện mới của đời sống xã hội. Đó là một nền nghệ thuật tràn đầy nhiệt tình chống lại thói ba hoa rỗng tuếch, sặc mùi cá nhân chủ nghĩa. Nó sẽ là một nền nghệ thuật tái hiện được tinh thần vô tận và hùng hậu của nhân dân. Nó sẽ trở nên sâu sắc bằng sự cảm nhận chính xác hiện thực và sự khâm phục, đề cao trí tuệ.
(Bài đăng trên báo “Nhân đạo” ngày 30-6-1926)
BÙI VIÊT THẮNG dịch (Qua bản tiếng Nga của I.Xtêphanốp trên tạp chí “Văn học nước ngoài” số 5, 1973)

HENRI BACBUYTX
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.