TRẦN ĐÌNH SỬ
Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.
Ảnh: internet
Nhưng có một vấn đề chưa rõ: Câu "dân vi bản" do ai nói, nói bao giờ? Anh Văn Như Cương chỉ nói chung chung, phiếm chỉ: "Ngày xưa các cụ hiền triết chỉ nói "Dân vi bản”. Anh Đào Thái Tôn trong bài báo sau đó đã "vặn" lại anh Cương: "Ngày xưa là thời nào? những nhà hiền triết ấy là ai?" Nhưng anh Tôn cũng không biết. Anh chỉ nói lấp lửng, nửa chiều ra có, nửa chiều ra không. Anh viết: "Các vị ấy nói hàng trăm thứ chuyện. Nhưng chưa vị nào "nói" đến ba chữ "dân vi bản" không nằm trong văn cảnh nào như thế hoặc chỉ nói dân vi bản”. Xét qua vài bài quen thuộc của Khổng Tử, Mạnh Tử, khống thấy có. Xét lại vài bài của Nguyễn Trãi anh cũng thấy "chưa thấy cụ viết ba chữ liền "dân vi bản". Cuối cùng, anh đề nghị nên "thông cảm" với các cụ, đừng nên "bắt các cụ nói tuột ra một mệnh đề "dân vi bản" không nằm trong văn cảnh nào cả”. Hơn nữa cụ nào cũng hô lên "Dân vi bản!" thì làm gì còn xã hội phong kiến để các cụ sống mà... nghĩ về dân! "Vậy không rõ có cụ nào nói "dân vi bản" trong văn cảnh cụ thể không? Có cụ nào hô lên "dân vi bản" chưa? Xem ý tứ câu văn thì hình như anh Tôn cho rằng các cụ đã "nói” "dân vi bản" trong văn cảnh, và đừng "bắt" các cụ nói tuột ra ba chữ ấy liền mạch. Tôi nghĩ đó là một ngộ nhận.
Theo tôi biết, cụm từ "dân vi bản" xuất hiện ở Trung Quốc vào thời cận đại, trong phong trào cải lương tư sản cuối thế kỷ XIX. "Dân vi bản" là câu của Khang Hữu Vi (1858-1927), lãnh tụ của phái cải lương tư sản Trung Quốc thời ấy. Trong bài Xuân thu bút tiêu đại nghĩa vi ngôn khảo ông viết: "Nước thành lập ra là để cho dân. Việc nước không thể không có người trông nom, cho nên mới lập ra vua, vì thế mà dân vi bản nhi quân vi mạt (dân là gốc mà vua là ngọn). Một nhà tư tưởng khác của phong trào dân chủ tư sản này là Đàm Tự Đồng (1866-1898) phát triển tư tưởng ấy, tiếp nối truyền thống phê phán tư tưởng quân chủ có từ Hoàng Tông Hy (1610-1695), tiếp thu tư tưởng "dân chủ", "dân quyền" của phương Tây đã cho rằng: "Dân chúng ban đầu vốn không có ai là vua cả, tất cả mọi người đều là dân. Dân không thể tự trị và cũng không thể trị nổi, cho nên cùng nhau cử ra một người làm Vua" (Nhân đạo). "Do có dân mà mới có vua, không phải vua chọn dân mà là dân chọn vua vậy". - "Vua là ngọn, dân là gốc vậy", (quân, mạt dã, dân, bản dã). Lại nói "Vua do dân bầu ra thì cũng do dân phế truất", tiếp đó ông chỉ trích chế độ quân chủ đã "đặt ngược gốc ngọn", "vua biến thành giặc của dân, kẻ độc tài của dân". Các tác giả này đã dựa vào tư tưởng "dân chủ" để phủ nhận triệt để tư tưởng tôn quân hủ bại hàng nghìn năm. mặc dù họ vẫn còn thừa nhận vua trong "thể chế quân chủ lập hiến".
Theo tôi thì các cụ chí sĩ cách mạng cận đại của ta đã tiếp thu tư tưởng "dân vi bản" từ nguồn này. Có thể là các cụ đã đọc sách Khang Lương rồi nhập tâm truyền khẩu chứ không viết ra thành bài. Điều này cần được thẩm tra lại. Nhưng các cụ hiền triết này không xưa lắm đâu. Trong bài Hải ngoại huyết thư (1906) Phan Bội Châu có nhắc đến câu "Dân vi bản" (Dân là gốc của đất nước) mà các tác giả Hợp tuyển thơ văn Việt nam tập IV, quyển 2 cho biết là lời của Kinh Thư, rất cổ, nhưng cái tinh thần "Người dân ta, của dân ta, Dân là dân nước, nước là nước dân" thì chỉ có thể là tinh thần cận đại, chủ trương dân chủ. Bởi lẽ dân là gốc của nước, nhưng nước chưa hẳn đã là của dân (nước dân). Điều này khác hẳn tư tưởng "Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh" (Dân là quí, Nhà nước kém hơn, vua là nhẹ) của ông Mạnh Tử (372-289), một người chỉ xem dân là phương tiện, chứ không xem dân là mục đích. Ông nói "Giữ gìn dân để làm vua thì không ai có thể chống lại được" (Mạnh Tử Lương Huệ Vương thượng) việc quí dân ở đây chỉ là tiền đề để giữ gìn chế độ quân chủ.
Tuy vậy, nếu xét kỹ nội hàm chữ bản, thì trong tư tưởng triết học Trung Hoa xưa, bản là bản nguyên hay bản thể, có thể hiểu là cội nguồn, gốc, bản thể. Chẳng hạn Thiệu Ung (1011-1107) nêu: "Đạo là gốc của thiên địa, thiên địa lại là gốc của vạn vật" (Quan vật nội thiên). Chu Hy (1130-1200) thì nói "Lấy lý làm gốc" (Dĩ lý vi bản), lại nói: "Thái cực như một gốc mọc lên, chia thành cành nhánh, lại từ cành nhánh mà sinh ra lá ra hoa, sinh mãi không cùng" (Chu Tử ngữ loại). Xem thế thì biết, câu "dân là gốc", xét về tính quan niệm, thì chưa phải đã thể hiện một tinh thần dân chủ thực sự, vì dân chủ đòi hỏi xem dân là chủ thể, chứ không chỉ là bản thể hay cội nguồn. Tính chất khách thể của dân trong mệnh đề trên không phải do dịch thành "làm” hay "là" mà có như anh Văn Như Cương tưởng, mà do ý nghĩa của chữ bản (gốc) qui định. Sử dụng câu chữ xưa để diễn đạt tư tưởng mới là chuyện bình thường, vì đời sống tư tưởng của xã hội không thể thiếu được sự kế thừa. Nhưng không nên quên rằng cái nghĩa gốc của từ ngữ cổ xưa thường trói buộc, hạn chế sự biểu đạt ý nghĩa mới.
Đảng ta nói "Lấy dân làm gốc" để diễn đạt một tư tưởng dân chủ có tính cách mạng. Ta hiểu đó là một cách dùng từ bóng bẩy có hình ảnh ẩn dụ do từ gốc ngọn mà ra, lại mang một ý vị truyền thống, gần gụi với cha ông thời trước. Hoàn toàn không nên xem đó là một thuật ngữ triết học hay chính trị học hiện đại. Những lúc cần diễn đạt chính xác, rõ ràng, thiết tưởng không chữ nào hay hơn chữ dân chủ, tinh thần dân chủ, nguyên tắc dân chủ.
Hà Nội. 4-1991
T.Đ.S
(TCSH47/01&2-1992)
Văn học, từ xưa đến nay là sự khám phá không ngừng nghỉ về con người, đặc biệt về tâm hồn con người. Khám phá đó giúp cho con người hiểu rõ về bản thân mình hơn, cũng có nghĩa là con người sẽ biết sống tốt đẹp hơn, chất lượng sống do đó sẽ được nâng cao.
Một phương diện giúp khẳng định phong cách của bất cứ nhà văn nào, mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là nghiên cứu yếu tố ngôn từ - chất liệu cơ bản để sáng tạo nên tác phẩm văn chương mà nhà văn đã vận dụng một cách nghệ thuật.
Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”.
Gần đây, đọc một vài truyện ngắn trên tạp chí Sông Hương, tôi vô cùng cảm động. Trước số phận của các nhân vật, tôi muốn nói lên những suy nghĩ của mình và chỉ mong được coi đây là lời trò chuyện của người được "nhận và cho":
Ông Eđuar Điujacđen là một nhà thơ có tài và có thể nói là được hâm mộ trong số các nhà thơ thuộc thế hệ già - người vẫn giữ được tình cảm và sự khâm phục cuồng nhiệt của lớp trẻ, đã mở đầu một cuộc thảo luận về thơ.
Việc mở rộng phong trào giải phóng tư tưởng trên văn đàn thời kỳ mới, lãnh vực phê bình và lý luận văn nghệ đã xuất hiện cục diện vô cùng sống động.
"Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động" (Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH TP.HCM, 1995, trang 19).
Phê bình văn học là giải minh cho văn chương. Văn chương hay hoặc dở, giản đơn hay phức tạp, nó được thiết lập trên thi pháp này hay thi pháp khác, thể loại này hay thể loại khác, thời này hay thời khác v.v... đều phải được làm sáng tỏ bằng những lập luận khoa học chứ không phải bằng cảm tính của người phê bình.
LTS: Sau khi Sông Hương đăng bài “Khủng hoảng ngay trong nhận thức và niềm tin đi tìm lối thoát cuộc khủng hoảng văn học” của nhà văn Nguyễn Dương Côn, chúng tôi nhận được ý kiến “phản biện” của 2 nhà văn Phương Lựu và Trần Thanh Đạm.
LTS: Có nhiều cách hiểu về câu thơ trên. Y kiến của cụ Thanh Huy - Cử nhân Văn khoa Việt Hán, sinh 1916 tại Huế, cũng là một ý có thể tham khảo đối với những ai quan tâm Truyện Kiều, để hiểu thêm và đi đến kết luận về cách tính thước tấc của người xưa.
SH
Từ thơ ca truyền thống đến Thơ mới là một sự đột phá vĩ đại trong quan điểm thẩm mỹ của thơ ca. Chính sự cách tân trong quan niệm về cái đẹp này đã làm một "cú hích" quan trọng cho tiến trình phát triển của thơ ca Việt . Nó đã giúp thơ ca dân tộc nhanh chóng phát triển theo con đường hiện đại hóa. Và từ đây, thơ ca Việt có thể hội nhập vào thơ ca nhân loại.
Trong truyền thống thơ ca Nhật Bản, thơ haiku giữ một vị trí rất quan trọng. Nó là một viên ngọc quý giá và là một phần tài sản tinh thần trong kho tàng văn học Nhật Bản.
(Trao đổi với nhà lý luận Nguyễn Dương Côn)
"Thượng đế dằn vặt tôi suốt đời" (Đôxtôiepxki)
1. Trong số những người đi tiên phong.
Mười năm thơ thập thững vào kinh tế thị trường cũng là mười năm những nhà thơ Việt phải cõng Thơ leo núi.
Từ lâu, người ta đã nói đến cuộc tổng khủng hoảng của văn học trên quy mô toàn thế giới.
Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.