Bản Sê-rê-nát của Su-be

09:47 17/01/2011
PHẠM PHÚ PHONGTôi ngồi bất động, tựa như nuốt phải một cây gậy, người cứng đờ, im lặng, cho đến khi bản nhạc chấm dứt. Nguyễn Hương cũng im lặng ngồi đối diện góc tường, châm thuốc hút. Mới mấy năm không gặp, bây giờ trông anh đã khác hẳn. Đầu tóc hớt cao, lưỡng quyền nhô ra. Thời gian đã kịp cày xới, để lại trên trán anh những đường rãnh nhỏ.

Nhà soạn nhạc F. Schubert - Ảnh: Internet

- Anh được mấy cháu rồi? Tôi hỏi, khi Nguyễn Hương chuyển sang cho tôi cốc cà phê anh vừa đánh tan đường.

- Một cháu! Anh mỉm cười hóm hỉnh.

- Chắc là cháu trai? Thấy anh gật đầu, tôi hỏi tiếp: Cháu mấy tuổi rồi anh?

- Cháu năm nay đã ba mươi hai tuổi và đang ngồi trước mặt cô đây!

Chúng tôi bật cười thành tiếng. Tôi nghĩ: anh chàng nầy chứng nào tật nấy, vẫn thích đùa như hồi còn đi học… Tiếng nói tiếp sau cắt đứt dòng suy nghĩ của tôi - Tôi ở Cam-pu-chia về. Vẫn là lính. Ở đơn vị tôi có quen một người. Người đó biết Đinh Hương. Lần này về làm công tác chính sách cho đơn vị, tôi có ý định sẽ tìm Đinh Hương, may quá chiều nay lại gặp. Đinh Hương còn nhớ người tên là Phạm Thành không?

Như có một luồng điện cao thế chuyền khắp người tôi. Khúc nhạc của Su-be lại nổi lên…

***

Tôi sinh ra ở bệnh viện C Hà Nội. Nhưng không vì thế mà tôi nhận thấy mình là người Hà Nội. Bố mẹ tôi người Đà Nẵng, tập kết ra Bắc. Tuổi thơ của tôi gắn liền với khung trời Hà Nội, những năm tháng sơ tán, cùng với những mùi vị mặn nồng của thành phố biển quê hương mà bố mẹ tôi thường kể. Tôi hình dung con sông Hàn cũng giống như sông Hồng theo trí tưởng tượng của tôi thời đó.

Sau năm 1975, tôi theo gia đình vào Nam. Nhưng không về Đà Nẵng như tôi mơ ước, mà về một thành phố khác ở miền Trung, nơi ba tôi nhận công tác. “Con đã xong lớp mười, ở đây con học đại học cho gần cũng tiện” - Ba tôi bảo vậy. Thế là tôi có thêm một quê mới, một thành phố nổi tiếng thơ mộng, dịu dàng.

Lúc này tôi đã mười tám tuổi, vào học đại học Sư phạm. Là đoàn viên nòng cốt, tôi tham gia công tác ở Hội Liên hiệp sinh viên. Phạm Thành đã đến với tôi trong những ngày học tập, công tác, lao động sôi nổi ấy. Anh cũng người quê ở Đà Nẵng, bố là bộ đội - là bạn thân của bố tôi trong cuộc kháng chiến trước - đã hy sinh. Anh lớn lên với mẹ trong nhà tù Mỹ Diệm, trốn ra đi học, rồi tham gia hoạt động cách mạng, là một trong những nòng cốt của phong trào sinh viên học sinh. Anh kể cho tôi nghe những năm tháng hãi hùng trong nhà lao Kho đạn, khi mẹ anh bị địch đánh chết đi sống lại. Anh vén tóc chỉ vết sẹo xanh mà kẻ thù để lại ở anh. Anh kể về những ngày tháng lang thang kiếm sống bằng đủ các nghề như bán kem, bán báo, đánh giầy… Rồi những ngày hoạt động sôi nổi, nguy hiểm nhưng đầy hấp dẫn. Tôi say sưa với những câu chuyện tưởng chừng không có thật đó. Tôi yêu những chiến công và yêu anh từ đó. Ở người con trai nầy tôi thật sự tìm thấy nơi gửi gắm tâm hồn. Anh hơn tôi nhiều mặt, cả tuổi đời lẫn sức học (anh học năm thứ ba trường Luật và hơn tôi đến bảy tuổi). Ngay cả về lý tưởng cách mạng của anh cũng trong sáng hơn tôi. Anh không chỉ am hiểu về văn học, hội họa mà còn hát hay, đàn giỏi. Trong các bản nhạc, anh thích nhất bản Sê-rê-nát của Su-be. Tôi không am hiểu âm nhạc lắm, nhưng một cảm nhận vô hình nào đó thu hút, khiến chiều nào tôi cũng theo anh đến một góc nhỏ, dưới giàn hoa giấy ở quán cà phê Thanh niên, nghe bản nhạc ấy.

Có một lần anh kể với tôi về cuộc đời của người nhạc sĩ nghèo người Áo này: Xuất thân là một giáo viên nghèo, nhưng say mê âm nhạc được bạn bè giúp tiền học nhạc. Chẳng bao lâu, tiếng tăm của Su-be bay đến thành Vienne. Một bá tước giàu có mời về biểu diễn. Khi tiếng đàn của Su-be chiếm lĩnh tâm hồn mọi người, đang ở đoạn sâu lắng nhất, thì từ hội trường vang lên tiếng cười trong trẻo của một cô gái. Đó là con gái cưng của bá tước. Với lứa tuổi mười sáu cô ít chú ý đến âm thanh mà chăm chú quan sát người biểu diễn. Bỗng cô phát hiện trên cổ áo của Su-be có con số 5 - con số mà hiệu cầm đồ đính vào, Su-be thuê lại mà không biết. Khi tiếng cười bật ra, Su-be quay lại nhìn cô tức giận, đứng dậy xổ toẹt bản nhạc và bỏ ra về.


Hối hận trước hành động này, cô yêu cầu cha mời Su-be đến nhà dạy nhạc. Thời gian gần gũi, những giọt thạch nhũ nhỏ đều để một tình yêu hình thành giữa hai người. Mối tình này không được bá tước đồng ý. Ông đã ép con lấy một người môn đăng hộ đối, một quí tộc ở triều đình. Sau một thời gian chống lại quyết định của cha không được, cô buộc lòng phải đồng ý; chỉ xin một điều là được mời Su-be đến đàn trong lễ cưới. Khi buổi hòa nhạc trong lễ cưới mở màn, tâm hồn mọi người đang lắng trong bề sâu của âm thanh dưới mười đầu ngón tay của Su-be, thì bỗng bật lên tiếng nấc nghẹn ngào của cô dâu. Một lần nữa Su-be lại bỏ bản nhạc và ra đi. Lần đi này là vì đau khổ. Trên đường về quê, trong một buổi chiều sập tối, ông sáng tác bản Sê-rê-nát này. Những cung bậc buồn như cuộc đời của một nhạc sĩ nghèo dưới chế độ cũ. Gam của Su-be bao giờ cũng là dấu bằng, người đang vui nghe thấm thía ý nghĩa cuộc đời, kẻ buồn nghe như được sự an ủi lớn lao…

Tôi nghe như uống từng lời anh kể. Su-be biểu hiện nỗi buồn của Thành. Tôi yêu anh và yêu cả nỗi buồn đó, yêu cả tính tình trầm lặng, sự nhút nhát đến vụng về của anh. Tôi gắn bó với anh, coi anh là tất cả, và tưởng như không có gì có thể chia cắt chúng tôi, nếu không có sự xuất hiện của Lâm.

Lâm là con một người bạn của mẹ tôi, hiện nay đứng đầu một cơ quan cao cấp ở Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp đại học ở Hung-ga-ri, Lâm về quê thăm bà nội và họ hàng. Anh thường lui tới thăm viếng bố mẹ tôi, vì là chỗ thân tình. Chỉ trong một thời gian ngắn, tôi nhận thức được rằng Lâm đang say mê tôi. Con gái, thường khi đã có đối tượng chắc chắn, nhưng được thêm một người chú ý, vẫn là niềm kiêu hãnh. Với tư cách là “thổ dân”, vài lần tôi đưa Lâm đi thăm chơi một số nơi. Tôi lại có dịp bày ra lại những hiểu biết tối thiểu, đôi khi không chính xác, về các di tích văn hoá, mà trước đây đã có lần Thành giảng giải cho tôi nghe. Lâm tranh thủ về thường xuyên hơn. Lại những chuyến đi ngoại ô, những buổi leo núi những chiều tắm biển. Dạo nầy, tôi biết rằng bố mẹ tôi rất mến Lâm, muốn tạo điều kiện cho chúng tôi gần gũi nhau. Còn với Thành, “… nó là thanh niên miền Nam, thế nào mà chẳng nhiễm ít nhiều thói hư tật xấu, tính tình lại trầm lặng, khó hiểu, nhà lại nghèo…” Tôi xin nói mà không tự xấu hổ với chính lòng mình rằng, tôi vẫn yêu Thành và bỏ ra ngoài tai những lời nói ấy. Nhưng, tôi yêu chứ không phải say như trước. Anh là người từng trải, có nhân cách, nhưng đôi khi làm tôi bực mình về cái nhân cách quá mẫu mực cao thượng và trong sáng đó. Anh thiếu sự khôn ngoan lanh lợi, anh sống cho bạn, hy sinh cho tôi nhiều quá. Tôi thỏa mãn với niềm hạnh phúc anh dành cho, nhưng vẫn khát khao được tự mình lo toan, cống hiến cho người khác.

Thời gian cứ trôi. Tôi vẫn yêu Thành nhưng dần dà tôi mến cả Lâm. Đối với mỗi người thời gian có ý nghĩa đặc biệt thầm kín. Đôi khi nó phù du và hoàn toàn không quy phục cảm giác, ngược lại, đôi khi nó trở nên cụ thể đến mức có thể sờ mó bằng tay được. Có khi một năm qua đi không để lại trong tâm hồn một dấu vết gì hết, và chẳng có gì để hồi tưởng về nó. Nhưng có khi mỗi ngày mỗi giờ đều đáng ghi nhớ, bởi niềm vui đã đến và ở lại mãi trong lòng; hay bởi nỗi buồn thầm lặng về hạnh phúc đã lướt qua. Lâm không biết gì về mối tình giữa tôi và Thành, nên vẫn tiếp tục đến với tôi bằng tất cả những gì tốt đẹp của một tình yêu chân thành.

Riêng Thành, ban đầu khi biết quan hệ giữa Lâm với gia đình tôi, anh coi là bình thường, thậm chí còn khuyên tôi nên đưa Lâm đi chơi trong những ngày Lâm về thăm. Anh vô tình, anh tin vào tình yêu của tôi nên không hề ích kỷ, giữ gìn. Dạo đó, trường Luật giải tán, sinh viên được chuyển vào Sài Gòn học tiếp, Thành chuyển hẳn về công tác ở Thành đoàn. Công tác của anh có bận rộn hơn, anh ít đến nhà, ít đưa tôi đi chơi như trước. Không biết từ bao giờ, tình cảm của tôi nghiêng hẳn về Lâm. Tôi tìm thấy ở Lâm cái nhún vai kèm với hai tay dang rộng và cái ngắt đầu rất tây, dáng đi nhún nhảy và nụ cười tròn môi đong đầy niềm vui. Hình ảnh của Thành dần dần mất ưu thế trong tôi. Cái trán cao thông minh chứa đầy mơ ước bây giờ như vồ ra khó chịu, lại thêm vết sẹo xanh đến khó coi. Dáng đi điềm đạm trở nên chậm chạp khù khờ. Đôi mắt mơ màng như dại đi trong yếu đuối. Sự chân thành đôi khi trở nên ngớ ngẩn… Dường như Thành cũng nhận ra điều đó, qua cách quan hệ hơi khác của tôi.

Một hôm, tôi gặp Thành từ cổng nhà tôi đi ra, anh nhìn tôi với đôi mắt rực lửa. Tôi bàng hoàng tưởng như chùm hoa phượng trước ngõ bừng đỏ đến xót xa.

- Anh Thành!

Mặc tôi gọi. Anh bỏ đi thẳng. Đó là lần gặp cuối cùng.

Tôi tức giận bỏ vào nhà. Thì ra bố mẹ tôi đang nói chuyện về anh ấy, với những lời chê bai, khinh thị!

- Anh Thành vừa đến nhà ta hở bố?

- Không thấy. Ừ, mà bố mẹ cũng đang nói chuyện về nó đấy, kể ra thằng đó cũng tốt, chỉ có cái hơi khù khờ và nghèo…

Tôi không nghe hết câu nói cuối cùng của bố. Tôi vụt ra đường đi dọc theo bờ sông dưới hàng cây long não. Vài chiếc lá rơi lơ lửng trước mặt tôi. Không tìm thấy anh. Những ngày sau đó, tôi không còn muốn thư từ gì cho Lâm và mấy lần đến tìm Thành đều không gặp. Dù sao những gì đã hình thành trong lòng tôi cũng còn sâu nặng, đằm thắm như hương thơm của chùm ngọc lan những đêm anh đưa tôi về qua đường Nguyễn Huệ. Có hôm tôi cố nài nỉ một cô bạn gái vào quán cà phê Thanh niên, ngồi dưới chùm hoa đỏ thắm, tỳ cằm vào thành cửa sổ, nhìn ra con đường nhỏ mong bóng dáng anh, nhớ anh trong những âm giai huyền diệu của Su-be, tâm hồn tôi đau đớn. Đến cơ quan để hỏi thăm bạn bè anh, nhưng mọi người tránh gặp mặt tôi, tránh nói về anh.

Hai năm sau. Khi quan hệ giữa tôi và Lâm đã trở nên nồng thắm, hai bên gia đình đã đồng ý, chờ tôi tốt nghiệp ra trường sẽ tổ chức lễ cưới; tôi lại nhận được thư Thành - lá thư duy nhất cho mối tình giữa chúng tôi - nhưng không phải là thư tình. Anh kể về cuộc sống của những người Thanh niên xung phong đang xây dựng vùng kinh tế mới Đắc Lắc. Anh nói toàn chuyện vui, không dính dáng gì đến tình yêu. Những thành tích cống hiến trong lao động, những cánh rừng thu hẹp, những rẫy lúa hoa màu, lan rộng ra những công thức: “Tình yêu cộng với cà phê bằng một trăm héc-ta”… Anh xác định quan hệ giữa chúng tôi vẫn giữ tình bạn. Đọc thư, tôi biết bây giờ anh thanh thản lắm. Một chút thương xót chen lẫn hờn giận xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi không trả lời thư, và từ đó chúng tôi không liên lạc gì với nhau.

Tôi đã học xong đại học. Lâm đã chuyển công tác về thành phố này, với tư cách là đại diện thường trực một cơ quan Trung ương tại miền Trung. Chúng tôi đã cưới nhau và có cháu đầu lòng. Cháu bé Hương Quỳnh nhà tôi kháu lắm. Tôi bằng lòng với hạnh phúc của mình. Lâm không chỉ là một người tình hấp dẫn mà còn là một người chồng lý tưởng, biết chăm sóc vợ con, gánh vác mọi việc của một người đàn ông trong gia đình. Chúng tôi được phân một căn hộ khá xinh sắn, trước nhà có cây trứng cá bốn mùa sai quả, cửa sổ nhà soi bóng dưới hồ sen ngát hương. Ngoài thời gian ở cơ quan, về nhà chúng tôi quấn quít bên Hương Quỳnh, nghĩ về con, sống cho con.

Nhưng chiều nay, tôi gặp lại Nguyễn Hương, người bạn học có tên cùng âm với tên tôi; rồi đến quán cà phê này, giàn hoa này, khúc nhạc này, tôi gặp lại nỗi đau của chính lòng mình.

***

Người ta nói rằng, làm ăn cũng có thời vận. Dù hàng quán anh có tốt, có ngon đến mấy nhưng không gặp thời thì cũng không làm sao đông khách được. Riêng với quán cà phê nhỏ này, không biết thời vận ra sao mà luôn luôn đông khách. Từ sáng sớm đến tận khuya lúc nào cũng đang tình trạng thiếu chỗ. Ở đây còn có cả các cô gái rủ nhau đến giải khát, tâm sự. Tuy đông, nhưng không ồn ào, xung quanh tôi râm ran những câu chuyện về nhiều đề tài sôi động. Nhưng dường như tôi không quan tâm đến ai, không nghe chuyện gì cả. Tôi chết điếng người đi khi nghe Nguyễn Hương báo tin:

- Anh ấy đã hy sinh trên đất bạn. Anh ấy đã chiến đấu và ngã xuống cũng tự nhiên bình thường như bao người lính. Chỉ tội cho mẹ anh, người vợ, người mẹ của ba liệt sĩ ấy chưa có cháu để ẵm bồng.

Thì ra, sáu năm qua anh đã vào bộ đội! Còn tôi, dường như tôi trượt đi trên bề mặt của cuộc sống, không hề chạm đến lòng sâu của nó. Hóa ra tôi được cuộc đời ưu đãi quá nhiều, mà thành ra kẻ phản bội. Tôi sống trên những cống hiến của người khác, tôi dựa vào công trạng của bố mẹ, dựa vào sự hy sinh của anh ấy, cuộc đời và hạnh phúc của chúng tôi suôn sẻ quá. Nhưng thôi nhớ lại mà làm gì?! Cuộc sống không phải là một bộ phim trong đó mọi tình tiết diễn ra theo từng lớp kịch bản viết sẵn. Cuộc sống phức tạp hơn nhiều…

Cơn mưa chiều kéo đến. Tỳ tay vào cằm, chiếc thìa nhỏ trong tay tôi dí vào vũng nước trên bàn, vạch thành nhiều đường rẽ ngang dọc. Tôi tê dại với nỗi mất mát đau đớn. Câu chuyện đi đến một thắt nút mà chính tôi cũng không ngờ, muốn gì thì gì, tôi cũng đã có thời yêu Thành tha thiết, chuyện đó không thể trôi đi không để lại dấu vết gì. Nhưng chính anh cũng là người có lỗi Thành ạ! Tại sao anh đi mà không hề cho tôi một mẫu tin tức nào? Tôi cố át tiếng nói của lương tâm, để nghĩ rằng trong chuyện nầy tôi không hề có lỗi. Những chuỗi ngày sắp đến của đời mình, tôi biết mình cũng sẽ sống rất hạnh phúc bên Lâm, bên cháu bé Hương Quỳnh. Nhưng tôi còn biết rằng trong dịu êm của hạnh phúc, tôi không thể nào thanh thản được, tôi có cả nỗi buồn của giai điệu Su-be, chờn vờn và vang vọng mãi bên tôi.

P.P.P
(11/1&2-85)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.