Bài hát ấy vẫn còn là dang dở!

16:09 27/05/2009
THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

Vợ chồng Lưu Quang Vũ

Nếu cho rằng thiên tài là một năng lực được tập trung cao độ vào một đối tượng để nghiền ngẫm, nó phụ thuộc chủ yếu vào ý chí của chủ thể và được tạo ra bằng lao động đam mê của cá nhân cùng với những phẩm chất thiên phú để tạo ra hiệu ứng cao từ công việc thì Lưu Quang Vũ quả là một thiên tài. Những vở kịch, bài thơ làm kinh động hồn người là một bằng chứng hiển nhiên.

Trời đất đã ban cho chúng ta một thiên sứ, và rồi dường như không muốn để tặng vật của mình bị ô tạp nơi cõi tục, trời đột ngột nhón tay thu về cõi thượng thanh để lại cho chúng ta nhiều hụt hẫng, tiếc nuối. Lưu Quang Vũ chết trẻ. Tài năng của người an ủi chúng ta. Tài năng đó từng làm kinh hoàng, đê mê người đọc bằng một sức mạnh nén bên trong không gì cưỡng nổi bật ra từ tác phẩm của Vũ. Tài năng đó đã vượt ra ngoài thính giác, thị giác tinh thần để hình thành nên ý nghĩa của sự bất tử.

Thơ Lưu Quang Vũ trải qua ba thời kỳ: 1- Thuở đôi mắt xanh non - Hương cây (những năm 60), 2- Phần đời gai góc - Quyển sách xếp nhầm trang (những năm 70), và 3- Trầm tư - Mây trắng của đời tôi (những năm 80). Với một trái tim sôi nổi mà trầm tĩnh, một trí tưởng tượng cao, tâm tư Vũ ngổn ngang bề bộn, quay cuồng trong xoáy lốc giữa những năm tháng chiến tranh ác liệt và gieo neo thời bình của đất nước.

Lưu Quang Vũ luôn thiết tha yêu cuộc sống, kể cả những khi cuộc đời tệ bạc với anh. Vũ đã không buồn bã chán nản trước những cay đắng đời thường mà kìm nén cất mình lên trong kiêu hãnh sướng vui. Quả là khốn khó đã sản sinh ra tài năng. Tấm lòng nhân hậu của Vũ rộng mở không biên giới, tạo nên một giọng thơ phơi phới đắm đuối, ấm áp tình người, tình đời. Cảm xúc của Vũ miên man, tươi sáng, đầy ắp chất liệu sống, vừa thực vừa ảo, đan xen chằng chịt hiện tại - quá khứ - tương lai, phong phú, tinh vi những nét tạo hình sống động. Anh có một tài thơ bẩm sinh, viết như trong cơn say, như kẻ nhập đồng những rất tỉnh táo trước những buồn riêng, vui chung, những yêu - ghét, tin - ngờ, hy vọng và tuyệt vọng, ngợi ca hay phê phán, những chiêm nghiệm, dằn vặt..., mắt bao giờ cũng hướng về phía trước với sự tiên cảm tự tin và một tấm lòng yêu thương đằm thắm.
           
            Nơi lá chuối che nghiêng như một cánh buồm
            Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc
            Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất
            Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi

            Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài
            Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ
            Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ
            Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa
                                                (Vườn trong phố)
Lưu Quang Vũ sống với không gian ba chiều cùng những kỷ niệm êm ấm của một thời gian khổ ngọt ngào:
            Hoa chẳng sớm và trái không quá muộn
            Xuân không nhanh và đông chẳng kéo dài
            Mỗi khóm lá một hương rừng bí mật
            Nắng đọng vàng thung lũng tiếng ong bay.
                                                (Nơi ấy)
Hãy đọc những ký hiệu trong những giọt nước mắt, ánh nhìn, đôi bàn tay của người yêu và tìm cách giải mã thì may ra mới hiểu được nàng. Thi nhân đã làm cho người tình của mình trong suốt lên.
            Phút đưa nhau ta chỉ nắm tay mình
            Điều chưa nói thì bàn tay đã nói
            Mình đi rồi, hơi ấm còn ở lại
            Còn bồi hồi trong những ngón tay ta.

            Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa
            Nhập luồng nước, hoà nhau màu sắc
            Trao cảm thương hai bàn tay nắm chặt
            Nghe máu mẹ cha chuyển giữa mỗi tay mình.
                                                (Hơi ấm bàn tay)

Khi yêu ai cũng đẹp, không có ai xấu cả. Dâng hiến, trao gửi cho người mình yêu, tình yêu của con người trở nên cao cả. Tình yêu phơi bày giá trị đích thực của một Lưu Quang Vũ từ nhiều người khác. Nó là khởi nguồn của trí tuệ, ánh sáng. Tình yêu cho con người một cơ may để chín, để già giặn, để định hình tạo ra một thế giới riêng mới lạ, đầy tin yêu và trân trọng trong thơ Vũ.
            ...Biết ơn em, em từ miền cát gió
            Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng
            Anh thành người có ích cũng nhờ em
            Anh biết sống vững vàng không sợ hãi
                                                (Và anh tồn tại)

Con người Vũ rất dễ thơ, ít lựa chọn đề tài. Anh làm thơ dễ dàng không mấy khó khăn. Trong hồn Vũ chứa đầy ắp những thi tứ, hễ đụng đến là thơ tuôn ra, nó khác xa với thứ thơ lắp ghép đẽo gọt mà nhiều người làm thơ khác thường ì ạch mần một cách nặng nhọc. Hãy xem, Vũ ngắm:
            Giờ đang chiều tháng tư
            Trong vườn chùm nhót đỏ
            Dãy bàng lên búp đỏ
            Xanh như là thương nhau.
                                                (Chiều)
Một hồn thơ say mê đến man dại:
            Những cánh đồng hoa cúc mọc rưng rưng
            Chùm nắng lạ tươi vàng trên cỏ dại...
            Đêm nay gọi tìm nhau trong đất tối
            Mắt tơ vàng nóng bỏng giữa đài hoa.
                                                (Hoa vàng ở lại)
Một cách liên tưởng dịu ngọt, tỏ tường:
            Nghe hoa súng bờ ao se sẽ nở
            Da diết lòng hương dịu tự vườn cau.
                                                (Những con đường)
Lưu Quang Vũ có cảm nhận run rẩy tinh tế từ cặp mắt thi sĩ ở tuổi 17 khi ngắm hoa đào nở sớm dưới một trời xuân lất phất mưa phùn se lạnh:
            Cánh bối rối rung rinh trong gió lạnh
            Ta ấm lòng mà cũng rất phân vân
Có ký ức tuổi thơ bùi ngùi thương nhớ:
            Giấc ngủ trôi về như giải sông đen
            Có rong dại và ngút ngàn lau trắng
            Một thành phố xa xôi có nhịp cầu đá xám
            Con sẻ gầy trên gió hát ngu ngơ.
                                                (Thơ ru em ngủ)
Có cảm giác giục giã:
            Sau mùa hạ đến mùa thu lá đỏ
            Đất đai thành xứ lạ lúc trăng lên.
                                                (Chiều chuyển gió)
Có thể xem những bài thơ Vườn trong phố, Tiếng Việt, trường ca Đất nước đàn bầu... là những kiệt phẩm trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

Thơ Lưu Quang Vũ đẹp. Có thứ thơ đẹp bởi son phấn vẽ vời, còn thơ Vũ đẹp từ trong hồn đẹp ra. Vẻ đẹp đó tượng trưng cho luân lý nên nó rất đời thường và chân mộc. "Lên đến tột đỉnh của sự vĩ đại ta gặp sự giản dị" (Lép Tônxtôi). Vẻ đẹp trong thơ Vũ là sản phẩm kỳ diệu được nhà thi sĩ cấu tứ nhào nặn nên từ cõi hỗn mang của tâm thức trong cơn bức bối khôn cùng. Cái đẹp này sẽ tồn tại theo nhu cầu của người hưởng thụ. Nó được nâng niu gìn giữ khi những giá trị thẩm mỹ đó không phá vỡ hay làm ngược lại những yêu cầu thẩm mỹ mới. Cái đẹp nền nã của Lưu Quang Vũ không còn là một sự chuyên chế ngắn hạn nữa.
            ... Cháu đã đi từ lòng bà ấm áp
            Để sống hết những vui buồn dân tộc
            Những hoa bìm hoa súng nở trên ao
            Những ban mai xanh biếc tiếng đàn bầu
            Bà hiền hậu têm trầu bên chõng nước
            Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích
            Lúa bàng hoàng chín rực cả triền sông...
                                                (Đất nước đàn bầu)
Với Đất nước đàn bầu, nhà thơ đã nói về quê hương và con người với tất cả tình yêu và nỗi đau.

Lưu Quang Vũ gắn bó mình bằng những sợi dây vô hình quyện chặt với cơ thể nhân dân và thời đại. Qua tác phẩm, Lưu Quang Vũ đã tạo ra được một cộng đồng đông đảo nhân dân của mình. Văn chương của Vũ không làm con người cảm thấy nhỏ đi mà nâng con người lên làm cho họ thấy mình lớn lao thêm. Con người, dân tộc và thời đại qua gương mặt Lưu Quang Vũ làm cho chúng ta hình dung sáng rõ hơn chân dung Tổ quốc.

T.D.H

(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H