Bài "Hành" và Dương Phụ Hành của Cao Bá Quát

08:42 14/09/2009
TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

Chu Thần Cao Bá Quát - Ảnh: Internet

Người viết lật tìm ở một số từ điển tiếng Việt, từ điển Hán Việt thông dụng (như Từ điển tiếng Việt - Hoàng Phê chủ biên, Nxb Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học, 1994; Hán Việt từ điển - Đào Duy Anh, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1994;...) Từ điển văn học (2 tập, nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã hội, 1983 - 1984), cũng không thấy "hành". Rõ ràng "hành" không phải là từ thường dùng.

Sách Thơ Đường (2 tập, nhiều người dịch, Nxb Văn học, 1987) định nghĩa "hành": "tên một điệu ca khúc thời xưa" (tr,69-I). Sách Thơ văn Đoàn Nguyễn Tuấn (Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, 1982) định nghĩa "hành": "một thể thơ nhạc phủ trong cổ phong biến ra, như bài Cổ bách hành của Đỗ Phủ, hay bài "Tràng Can hành" của Lí Bạch (tr.60). Sách Đường thi (Trần Trọng Kim dịch, Nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1950) và sách Thơ Đường vừa dẫn, chọn dịch 17 bài có "hành" (là danh từ trung tâm của danh ngữ dùng đặt tên tác phẩm, như Tàm cốc hành (Đỗ Phủ), Yên ca hành (Cao Thích), Lũng Tây hành (Trần Đào),... và đều dịch là "bài hát" (trừ bài Tì bà hành (Bạch Cư Dị) không dịch). Các dịch giả sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nxb Văn học, 1988) chép 4 bài "hành" ở phần Bắc hành tạp lục, không chuyển "hành" thành "bài hát" như hai sách trước mà là "bài hành"; ví dụ Sở kiến hành "Bài hành về những điều trông thấy. Cũng bài Sở kiến hành này, sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập 3) - thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX (Huỳnh Lí chủ biên, Nxb Văn học, 1978) dịch là "Những điều trông thấy"...

Trước những cách hiểu không thống nhất như vậy, để đáp ứng yêu cầu giảng dạy, người viết đã tìm hiểu 17 "bài hành" ở thơ Đường vừa nêu, cùng 6 "bài hành" trong văn học Việt Nam (4 của Nguyễn Du đã nói, 1 của Cao Bá Quát - bài sắp bàn, và một của Phạm Quý Thích - bài Cơ tước hành về các mặt: 1, phạm vi của đối tượng được đề cập là chung hay riêng; 2, đặc điểm của đối tượng đề cập là quen thuộc hay mới lạ; 3, tâm trạng của chủ thể trữ tình là hào sảng hay sầu thương; và 4, cách thể hiện là kể hay tả. Đồng thời, cũng xem xét về thể thơ được sử dụng. Kết quả của việc làm này dẫn đến định nghĩa "hành" như sau: Hành là bài thơ, thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mới mẻ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến, thể thơ cổ phong thường được sử dụng để sự biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc. (1)

2. Dương phụ hành được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát đi theo một phái đoàn nước ta sang Inđônêxia. Trong chuyến đi này, ông có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, thấy nhiều điều mới lạ. Như chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước của người Anh:

Guồng quay, sóng tung toé ầm ầm như sấm ran
Có lúc đi ngang, lúc chạy ngược, nhanh như ngựa phi
Không buồm, không chèo, cũng không người đẩy
Từ những đảo Nanh Rồng, hay Đá Đỏ xa ngoài trăm dặm
Chỉ búng ngón tay đã vượt qua những đợt sóng kinh người.
                                   
("Bài ca về tàu thuỷ nước Anh")

Trong lúc thuyền của phái đoàn ta đi bằng buồm và chèo một cách ì ạch, vất vả. Và ông trông thấy người phụ nữ phương Tây...

Tây dương thiếu phụ y như tuyết
Độc bằng lang kiên tọa thanh nguyệt
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh
Bá duệ nâm nâm hướng lang thuyết.

Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì
Dạ hàn vô ná hải phong xuy
Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li

Dịch nghĩa:
Người thiếu phụ Tây dương áo trắng như tuyết
Dựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo rì rầm nói với chàng.

Mộc cốc sữa hững hờ trên tay
Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi
Nghiêng mình đòi chồng nâng dậy
Há có biết người Nam đang ở cảnh biệt li.

Dịch thơ:
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
Kéo áo rì rầm nói với nhau.

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy
Biết đâu nỗi khách biệt li này!
           
(Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập 3);
                 Huỳnh Lí chủ biên; sđd, tr.748-749)

Đó là người thiếu phụ đang hàn huyên cùng chồng. Cái đập vào mắt trước tiên và tạo ấn tượng mạnh, là màu áo trắng như tuyết. Sắc màu này toát lên vẻ trong sáng, rực rỡ. So với người phụ nữ Việt Nam đương thời, phần đông là chít khăn mỏ quạ, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng để làm lụng; lúc nghỉ ngơi thì hết thắt, hết xắn chứ chẳng gì hơn. Và màu sắc chủ đạo là dà (đà), đen. Điều lạ thứ hai mà nhà thơ không thể không chú ý, là hành động, dáng vẻ của người thiếu phụ phương Tây. Chị ta "dựa vai chồng", "nhìn thuyền người Nam", "kéo áo rì rầm nói với chồng", "nghiêng mình đòi chồng nâng dậy",... Những hành động này cho thấy chị là vai chính, ở thế chủ động, chứ không phải người chồng. Chúng thật kì lạ. Vì với người phương Đông, người Việt xưa, người vợ ít khi ra khỏi nhà, càng hiếm khi sóng đôi với chồng ở bên ngoài. Nếu có trường hợp gần gũi nhau, mà ở chốn giàu sang, thì người vợ luôn giữ vai thụ động, dè dặt, lo "nâng khăn sửa túi" cho chồng. Chuyện nũng nịu, õng ẹo thường bị lên án. Cái lạ cuối cùng, là trên tay người thiếu phụ cầm cốc sữa một cách hờ hững, không muốn uống. Chi tiết này vẽ lên sự no đủ đến không thiết ăn uống (cho dù là thức ngon như sữa). Trong Sở kiến hành, Nguyễn Du có miêu tả một hình ảnh tương tự: "nào là gân hươu vây cá; Đầy bàn thịt lợn thịt dê; Các quan lớn không chọc đũa". Và nhà thơ dùng hình ảnh này để phê phán sự phung phí của quan lại, trong lúc người dân không ít người đang đói khát. Còn ở đây, Cao Bá Quát chỉ miêu tả đúng với sự việc đang xảy ra. Trong lòng ông (và người đọc), tất sẽ có sự so sánh với cảnh "Cơm thì nỏ có; Rau cháo cũng không;...; Dân nghèo cùng kiệt; Kẻ lưu lạc tha phương; Người chết chợ chết đường;... (Vè cái thời Tự Đức) lúc bấy giờ ở quê nhà.

Ba cái lạ ấy nhà thơ chỉ ghi nhận mà không bình luận gì. So sánh với đoạn thơ miêu tả chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước ở trước (giọng thán phục, thích thú), giọng thơ ở đây có vẻ điềm tĩnh, khách quan.  Đọc đến dòng cuối cùng, người đọc mới nhận ra: thực sự, những miêu tả vừa nói chẳng những không ẩn chút kì thị, tị hiềm (quan niệm khá phổ biến với tầng lớp quan lại buổi ấy), mà còn thể hiện sự đồng cảm sâu sắc.

Câu cuối thật bất ngờ. Nó có sức mạnh thu hút bảy câu trước về phía mình. Bởi đó là phát ngôn chính thức của chủ thể trữ tình. Phát ngôn này mang hai ý nghĩa: một là xác định sự đồng cảm về điều được miêu tả vừa nói, và hai là bộc lộ tình cảm riêng tư. Vào một đêm trăng sáng, lẻ loi trên con thuyền nơi đất khách, trông thấy vợ chồng người ta quấn quýt bên nhau, thì ai mà chẳng chạnh niềm riêng? Hẳn lúc này nhà thơ đang nghĩ đến người vợ, đến mái ấm gia đình ở quê nhà. Dù chỉ nói về mình một câu, và nói theo cách rất chung (Há có biết rằng, có người Nam đang ở cảnh biệt li), cũng là đủ. Vì bối cảnh (trạng thái, thời gian, không gian,...) đã nói hộ rồi.

Người đọc hôm nay qua bài thơ, hiểu được phần nào cái trí tuệ sáng suốt, cái tình cảm dạt dào của Cao Bá Quát. Người đọc đương thời, ngoài điều ấy ra, họ biết được người phụ nữ phương Tây như thế nào. Chắc chắn là họ cũng chăm chú và ngạc nhiên như tác giả (theo cách mà chúng ta vừa phân tích). Có lẽ đó là lí do vì sao nhà thơ dùng "hành" để đặt tên bài thơ, và định hướng chủ đề ở sự miêu tả kia (ở đây, có thể hiểu, câu thơ cuối có tác dụng để bài viết thành thơ, chứ không nhằm hướng người đọc vào nó, như cái nhìn của người đọc hôm nay mà chúng ta vừa ghi lại).

3. Một vài sự phân tích, nhìn nhận về Dương phụ hành trên đây, đem đối sánh với định nghĩa về "hành" ở trước, là hoàn toàn phù hợp. Nắm được ý nghĩa của "hành", cũng tức là nắm được phần ý nghĩa có tính chất nền tảng của bài thơ có nhan đề chứa nó (theo dạng thức đã nói), giúp vào việc "học điểm biết diện", việc thưởng thức bài thơ nói chung. Như vậy, những tìm tòi của bài viết ngắn này cũng không đến nỗi vô ích.

T.N
(186/08-04)


-------------------------------
(1) Xem thêm: Triều Nguyên; "Ý nghĩa của ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ cổ"; Tạp chí Hán Nôm, số 2-2002; tr.36-40.



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.

  • PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)

  • Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.

  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)

  • INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.