Ba mùa thơ của Nguyễn Khoa Điềm

16:21 22/04/2013

LÊ HUỲNH LÂM  

Khi thơ như một tấm gương phản chiếu tâm hồn của tác giả, phản ánh nhận thức của người sáng tạo với cuộc sống quanh mình, chiếc bóng trong tấm gương ấy là một phần của sự thật. Đôi khi sự thật cũng chưa được diễn đạt trọn vẹn bằng ngôn ngữ của nhà thơ.

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm - Ảnh: webold.hnue.edu.vn

Trong thế hệ làm thơ ở Huế thời chiến tranh chống Mỹ, có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã phần nào để lại những dòng xúc cảm trước nỗi đau của đất nước đang lâm vào một cuộc chiến khốc liệt. Cái cách ông biểu đạt trong thơ cũng như dáng vẻ bên ngoài của con người ông, trông nghiêm túc, bình dị, kiềm nén cảm xúc và khi đã bộc lộ thì rất đúng lúc.

Ông tự nhận mình có ba mùa thơ, đó là mùa kháng chiến, mùa hòa bình và mùa trở lại vườn cũ. Thật ra, đó chỉ là cách nhìn nhận theo thời gian, theo diễn tiến của xã hội và cuộc sống của tác giả. Còn trong thơ ông, tôi cảm nhận mùa nào cũng ăm ắp những trở trăn trước vận mệnh dân tộc. Trong những người làm quan lớn trở về, có thể nói Nguyễn Khoa Điềm là người sống lặng lẽ và vẫn miệt mài lao động với tư cách là một nhà thơ. Sức viết của ông như chưa hề thuyên giảm theo tuổi tác.

Những bài thơ mà ông viết vào thời kháng chiến, hầu hết vào đầu những năm 1970 cũng hội đủ nghệ thuật tu từ qua ngòi bút của một con người từng trải. Những hình ảnh trong tác phẩm của ông thật gần gũi với nỗi đau của người dân. Như một người mẹ ngồi bán hàng suốt mùa mưa, người phu xe nghiêng cốc rượu chiều, người mẹ miền núi phải địu con theo để đi làm rẫy, đi ra trận, người em gái chằm nón,… đã phần nào cho thấy một ánh nhìn của ông về phía những phận người khốn khó. Cái nhìn vào từng con người cụ thể, đã dần dần được mở rộng ra cái nhìn toàn diện về đất nước. Hồn thơ ông như đã hóa thân vào những người mẹ, người chị, hóa thân vào cuộc kháng chiến đầy máu và nước mắt để đổi lấy một mùa hòa bình.

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời


Hình tượng văn hóa trong thơ ông cũng giản đơn, gần gũi với người dân quê. Đó là hình ảnh người con gái chằm nón, trái bầu trái bí, cây tre, miếng trầu, một bến sông, những bãi vỏ hến, vỏ sò, một ngôi làng đã đổi thay. Hình ảnh người nông dân dầm sương dãi nắng được ông ví von như hạt gạo:

Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng

Hay hình ảnh của trái bầu trái bí được ông so sánh với những người con của quê hương:

Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên
Còn những bí và bầu thì lớn xuống


Văn hóa Việt đã ngấm sâu trong dòng máu của người dân được diễn đạt qua thơ ông:

Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại


Ông chuyển tải vào tác phẩm mình tầng tầng lớp lớp văn hóa của dân tộc ẩn chứa từ thời Đất là nơi chim về/ Nước là nơi Rồng ở, như hình ảnh Âu Cơ, Lạc Long Quân, Tổ Hùng Vương, Hòn Vọng Phu... được ông mô tả một cách cụ thể để hầu hết người đọc đều có thể cảm nhận.

Trong mùa kháng chiến, có thể nói trường ca Mặt đường khát vọng là đỉnh cao của ông. Dù ở trong cuộc chiến tranh với những mất mát, đau thương trong từng thời khắc, nhưng có một điều, tình yêu luôn hiện hữu cùng tác giả:

Anh mong em
Sau bốn năm cô đơn khao khát
Em trở về với đôi vai ấm áp
Nghiêng vào anh như con đường anh đi, qua tháng, qua năm


Và tình yêu với ông là một điều kỳ diệu, một ân sủng không thể nào ngờ được để ông luôn tự vấn lương tâm chính mình bằng một câu hỏi:

Em mãi mãi diệu kỳ
Anh yêu em trào nước mắt
Sao mắt này, tóc này
Tâm hồn này, da thịt này
Lại có thể của anh?


Để biện giải cho sự chia cách của tình yêu trong chiến tranh, ông đã mượn một câu thơ tình của thi hào Nêruđa, và hình ảnh chiếc then cài cửa lại là một câu thơ; một hình ảnh đẹp như chưa từng có trong tình yêu, mà người đang yêu như đã đón nhận một mũi tên vàng của vị thần ái tình Eros trong thần thoại Hy Lạp đã được mã hóa ở một cõi giác linh siêu nghiệm:

Sao chúng mình còn xa nhau
“Em hãy ở trong nỗi vắng anh như một ngôi nhà”
(1)
Một ngôi nhà có câu thơ làm chiếc then cài cửa
Suốt mùa chiến tranh…


Mùa thu như một chứng nhân đã gợi hứng cho hồn thơ của ông, khi ông cảm nhận màu vàng từ một chiếc áo, sắc thu trong những buổi chiều nhìn lá rơi đã giúp ông liên tưởng đến bài thơ “Mùa Thu” của nhà thơ Eptusenco:

Bởi vì em mặc áo vàng
Tôi muốn em hãy đọc bài thơ Nga ấy
(2)
Đã rung lên như lửa cháy,
Một mùa thu chết tận xa xôi
Cho tôi sống bồi hồi
Trên chân trời rung cảm khác


Và những đêm mùa thu, trong ngôi nhà có ngọn lửa ấm, có một dáng người ngồi suy tư để nhớ về những ánh lửa Trường Sơn:

Đã mùa thu
Đêm cha quạt cho con chút lửa

Cha ngồi dáng người thượng cổ
Nhớ mười năm đốt lửa Trường Sơn


Một ngọn lửa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, làm nên bản hùng ca bi tráng của Tổ quốc. Và khi đất nước đã hòa bình, ông vẫn khắc ghi một niềm tin vào cái thiện, vào chính nghĩa để tiếp tục chiến đấu với cái ác và sự giả trá, vô cảm dù đôi khi ông đã nản lòng, nhưng tất cả điều xấu rồi sẽ rơi xuống ngay cả sự nản lòng:

Tôi tin tưởng
Trên mặt đất này
Mọi điều ác, sự giả trá, sự vô tâm sẽ rơi xuống
Cả sự nản lòng sẽ rơi xuống


Thật hạnh phúc khi mỗi con người còn có được một ngôi vườn cũ để trở về, với nhiều người khác có thể họ không chọn hoặc không có suy nghĩ trở về. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã trở về. Trở lại một mảnh vườn của tuổi thơ. Trở về để chiêm ngắm quá khứ trong veo như dòng nước sông Hương phía trước nhà. Cuộc trở về của ông ngập tràn cảm xúc như mỗi lần nghe đâu đó vang lên giai điệu “Torna a Surriento”. Có thể ẩn chứa bên trong cuộc sống của Nguyễn Khoa Điềm còn khốc liệt hơn rất nhiều. Và ông đã trở về để soi lại bóng mình sau hàng chục năm ở chốn quan trường. Ông về với “Cõi lặng”, về ngắm lại những chặng đường ông đã kinh qua và ngắm nhìn cõi lòng miên man về một tình yêu cháy bỏng đã trở thành ký ức xa xăm.

Có một ngày em không yêu anh
Em đi thật xa


Có thể nói hành trình thơ của Nguyễn Khoa Điềm song hành cùng cuộc sống của ông qua từng giai đoạn. Từ cái thời ở chiến khu cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Vàng Sao,... rồi đến thời ông làm quan ở tỉnh nhà, ở Bộ Chính trị và cuối cùng là giai đoạn ông quay về khu vườn cũ. Một cuộc chuyển động như vậy mà chất thơ trong ông vẫn thần thái trang nghiêm, vẫn tiết nhịp chậm rãi, ông gieo từng tứ thơ, từng con chữ trên cánh đồng thi ca một cách cẩn mật, để đợi mùa gặt hái. Vậy mà có những lúc ông nghĩ mình chỉ là một thứ quả non xanh:

Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?


Tôi đang hình dung gương mặt thơ của ông, thì lại nhớ đến mấy câu của nhà thơ Xuân Sách, tạc chân dung của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:

Một mặt đường khát vọng
Cuộc chiến tranh đi qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm


Không thể nào tưởng tượng ra một chân dung thơ nào khác hơn, thôi đành mượn mấy câu của nhà thơ quá cố để kết thúc bài viết này.

Huế, 7/2012
L.H.L
(SH290/04-13)


---------
(1) Thơ của Pablô Nêruđa.  
(2) Trong bài “Mùa thu” của Eptusenco.  




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.