Ngắm nhìn vẻ đẹp tinh khiết của cô nữ sinh Đồng Khánh dưới vành nón Huế, trong chiếc áo dài trắng tinh khôi, không ai nghĩ chỉ ít năm sau ngày chụp bức ảnh chân dung ấy, chị chính là nạn nhân của một chế độ lao tù tàn bạo và nghiệt ngã.
Chị Cao Thị Quế Hương thời thiếu nữ
Cô gái xinh đẹp, tràn đầy sức sống ấy ra tù chỉ còn da bọc xương, đôi chân bước không vững, phải tựa vào đôi nạng gỗ, là nhân chứng sống động tố cáo tội ác chiến tranh. Cuộc đời chị còn là một chuỗi dài của đau thương, mất mát…
Chị là Cao Thị Quế Hương, vợ của liệt sĩ Nguyễn Ngọc Phương - nguyên Ủy viên Thường vụ Thành đoàn thời chống Mỹ. Người con gái ấy giờ đây đang sống lặng lẽ trong một ngôi nhà nhỏ ở Đà Lạt…
15 năm trước, cũng ngôi nhà ấy, trên con đường Đào Duy Từ (Đà Lạt), tôi tìm đến chị vào một ngày cuối năm lạnh buốt. Trong căn phòng khách của ngôi nhà nhỏ, chị Cao Thị Quế Hương trong chiếc áo len dày ngồi bên lò sưởi. Chị cột chặt lại chiếc khăn choàng cổ, đôi mắt u buồn nhìn ra ngoài khung cửa sổ. Dưới tầm mắt nhìn của chị là một thung lũng mộng mơ xen lẫn sương mù, những mái nhà lô xô, những sắc hoa… Chị lại cúi xuống bên quyển album đã cũ. Từng bức ảnh được lật qua…
![]() |
Chị Trần Thị Lan (bìa trái) và chị Cao Thị Quế Hương (thứ ba từ trái) trong một cuộc hội thảo tại trường Đại học Văn khoa với trang phục áo dài những năm 1960 |
Chị từng là nữ sinh trường Đồng Khánh (Huế), Ban Văn chương. Bức ảnh chân dung với màu áo trắng dưới vành nón bài thơ đã nói lên phần nào thời áo trắng xinh tươi của chị. Thi tú tài xong, học dự bị văn khoa, chị không nghĩ mình sẽ bước vào con đường hoạt động chính trị. Nhưng biến cố năm 1963 khiến chính quyền Diệm bị đảo chính đã làm thay đổi mọi ý nghĩ của cô nữ sinh bé nhỏ, trầm lặng với cuộc sống khép kín. Âm thanh vang dội của đoàn biểu tình giới phật tử đi qua cầu Tràng Tiền đã vọng đến tai chị. Chị tham gia hội thảo ở chùa Từ Đàm do sinh viên tổ chức với nội dung chống lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, chống đàn áp Phật giáo. Bắt đầu từ đó chị đến với những hoạt động sinh viên. Hết mùa hè năm 1963, chị thi vào Đại học Sư phạm Đà Lạt, Ban Triết. Nhưng Khoa Triết dời về Sài Gòn. Thế là chị xuống Sài Gòn học, vừa tham gia hoạt động phong trào sinh viên phật tử.
Chị là nhân chứng những mối tình sinh viên thời nồng nhiệt, sôi động ấy. Chị kể những mối tình của bạn bè làm chị ngưỡng mộ. Đó là mối tình Trần Quang Long và Quỳnh Như. Quỳnh Như bị bắt khi đang có thai. Anh Long vào chiến khu, hy sinh, khi chưa biết mặt đứa con trai. Bùi Thị Mạnh gặp Trần Tấn Trung rồi yêu nhau. Những mối tình ấy đã nảy nở trong phong trào, đơm hoa kết trái, đối mặt bão dông nghiệt ngã. Khi chứng kiến, ngưỡng mộ những mối tình đẹp của đồng đội, chị Cao Thị Quế Hương không bao giờ nghĩ đến một ngày, mối tình của chị dành cho anh Nguyễn Ngọc Phương làm rơi nước mắt chúng tôi - những người lớn lên sau chiến tranh…
Người yêu chị - anh Nguyễn Ngọc Phương là một sinh viên y khoa, hoạt động phong trào học sinh sinh viên. Sát cánh cùng anh Phương, chị tham gia phong trào đòi tự trị đại học, hội thảo, những buổi biểu diễn văn nghệ mang đậm màu sắc dân tộc, phong trào bảo vệ nhân phẩm phụ nữ do Vân Trang, Phương Đài,… phụ trách. Cuộc hội thảo tại Đại học Y khoa với nội dung chống Mỹ, đòi hòa bình, đòi tự trị đại học, đòi được dạy bằng tiếng Việt và cuộc tranh cử giữa ban đại diện Trường Đại học Văn khoa và ban đại diện phe liên trường phục hưng miền Nam chống cộng đã diễn ra quyết liệt. Cuộc hội thảo này đã bị đàn áp. Nhớ về những ngày sôi động ấy, chị Quế Hương thừa nhận: “Những hoa khôi sinh viên như chị Lan, Tuyết Hoa… trở thành những biểu tượng của cái đẹp, thu hút lực lượng phong trào”. Trong các buổi diễn thuyết, biểu diễn văn nghệ, Tuyết Hoa trở thành biểu tượng của nữ vương hòa bình.
Chị Quế Hương không sao quên được những cuộc đàn áp của cảnh sát: “Hơn 100 sinh viên bị bắt trong hội trường đầy khói bụi, lựu đạn cay. Chúng giữ lại hơn 10 người, số còn lại được thả ra”. Chị là nhân chứng của vụ đàn áp ấy. Chị lại về Cần Thơ dạy học. Chị lại dạy hát, giáo dục cho học sinh những tác phẩm yêu nước. Trong vẻ đẹp mong manh, bí ẩn, chị vẫn thầm lặng đóng góp cho phong trào bằng cách của mình. Tháng 5-1968, tổ chức Thành đoàn gọi chị về Sài Gòn, giao nhiệm vụ mới. Chị gặp lại anh Nguyễn Ngọc Phương. Và tình yêu đến với hai người, như định mệnh…
Cùng hoạt động trong phong trào Học sinh - sinh viên, anh Nguyễn Ngọc Phương (Ba Triết) và chị Cao Thị Quế Hương đã có những năm tháng đối mặt với hiểm nguy, những tình huống ngặt nghèo, sống chết trong gang tấc. Những ký ức về anh vẫn còn nguyên vẹn trong chị. Chị như nhìn thấy anh sống dậy trong những ngày sôi động. Anh công bố liên minh Hòa bình - Dân tộc - Dân chủ của sinh viên - học sinh Sài Gòn - Gia Định. Anh phân công chị viết bài cho hoạt động báo chí của sinh viên. Chị có với anh bao kỷ niệm sâu sắc khi cùng hoạt động phong trào.
Nhưng khi tiếng súng và những gót giày đinh lùng sục qua rồi, căn cứ trở về cuộc sống trong lành, mơ mộng. Chị được tắm mát trong lòng dân, được bà con đãi những món đặc sản tuyệt vời. Về căn cứ, cô sinh viên văn khoa mảnh mai xứ Huế, càng hiểu thêm sức chịu đựng gian khổ của bà con nông dân, càng hiểu thêm sức nặng của cuộc chiến tranh mà cả dân tộc phải gánh chịu. Năm 1970, chị bị bắt đưa về đồn cảnh sát quận một khai thác rồi đưa đến nhà tù Thủ Đức. Chị bị đánh đập tàn nhẫn, đến nỗi lúc đưa chị ra tòa, chị không tự đi được mà phải có người khiêng và dìu đi. Hình ảnh cô gái bị đọa đày, hành hạ ấy là một nhân chứng sống động tố cáo chế độ dã man nhà tù Mỹ ngụy, gây nên sự xúc động mãnh liệt trong phiên tòa. Chị luôn nhớ đến những trí thức hành nghề còn lương tâm đã bênh vực cho chị như luật sư Vũ Văn Hùng, Vũ Văn Mậu đã bào chữa cho chị. Trước sức ép của công luận, chị được tạm tha. Hình ảnh tiều tụy của chị dấy lên làn sóng căm phẫn trong giới sinh viên. Các cuộc hội thảo, biểu tình tiếp sau đó diễn ra liên tục. Chính quyền Thiệu định bắt chị giam giữ trở lại nhưng các sinh viên đã đưa chị vào chùa Ấn Quang để bảo vệ. Sau đó, chị về tịnh xá Ngọc Phương, tham gia hoạt động phật tử. Năm 1973, người yêu chị hy sinh trong nhà tù. Đó cũng là lúc chị bị bắt vào nhà tù lần nữa. Chị bị giam ở Nha cảnh sát Đô Thành hơn nửa năm rồi chuyển qua Thủ Đức. Từ nhà tù Thủ Đức, chị bị đày ra Tân Hiệp…
Trong xa cách, lao tù, chị và anh hiểu rõ nhau hơn, càng thấy không thể sống thiếu nhau trong cuộc đời. Sau khi anh ra tù, anh chị báo cáo với tổ chức và gia đình sẽ đi đến hôn nhân. Nhưng rồi ngày 5-3-1970, anh chị bị bắt trở lại. Hai người cùng đối mặt với những ngón đòn tra tấn dã man của địch. Biết người yêu không qua khỏi, chị quyết định làm đám cưới trong nhà tù. Họ trao nhẫn cho nhau - trao một niềm tin mãnh liệt hai người đã thuộc về nhau.
Nghe chị kể, tôi vô cùng ngưỡng mộ mối tình của chị. Những tà áo dài của những người con gái đẹp xuống đường năm xưa thôi thúc tôi làm bộ phim tài liệu Những mối tình không thể chia ly. Tôi đến Đà Lạt, tìm đến ngôi nhà chị. Vẫn ngôi nhà ấy, khung cảnh ấy và chị Cao Thị Quế Hương vẫn ngồi bên khung cửa sổ năm ấy, bé nhỏ, mong manh. Nhưng những kỷ vật về anh Nguyễn Ngọc Phương thì chị giữ rất kỹ, vẫn còn nguyên vẹn, bất chấp tháng năm nghiệt ngã. Những lá thư của anh gửi chị vẫn còn nguyên vẹn, được chị sắp xếp theo ngày tháng, được chị nâng niu lưu giữ trong chính trái tim, bởi chị thuộc lòng từng dòng, từng chữ trong những lá thư. Với chị Cao Thị Quế Hương, thời gian dường như đã vĩnh viễn ngừng lại vào ngày 5-1-1973 - ngày anh Phương hy sinh. Chị nói tình yêu của anh lớn đến nỗi chị hạnh phúc khi sống cùng anh trong tâm tưởng, với những kỷ niệm một thời hoa lửa sôi động và đẹp đẽ.
Nguồn: Trầm Hương - SGGP
BỬU Ý
Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.
LÊ QUANG KẾT
Ký
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).
VŨ THU TRANG
Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.
TRẦN PHƯƠNG TRÀ
Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.
HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
Đoản văn
Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!
LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ
BÙI KIM CHI
Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.
KIM THOA
Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
(Hàn Mạc Tử)
NGUYỄN VĂN UÔNG
Hôm nay có một người du khách
Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên
(Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.
LÊ QUANG KẾT
Tùy bút
Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.
TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.
LÊ QUANG KẾT
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.
HUY PHƯƠNG
Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên
(Tố Hữu)
PHAN THUẬN AN
Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.
MAI KIM NGỌC
Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.
HOÀNG HUẾ
…Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…
QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
THU TRANG
Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ
Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.