Ảnh hưởng thơ Tố Hữu đến đời thơ của tôi

14:41 30/10/2020

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (04/10/1920 - 04/10/2020)

LÊ TUẤN LỘC

Ảnh: internet

Tuổi thơ tôi và tập thơ Từ ấy của Tố Hữu

Ngày bé, có hai con người đã trở thành mục tiêu tôi học tập và noi theo: Bác Hồ và Tố Hữu. Hồ Chí Minh là Danh nhân văn hóa của nhân loại, đã được UNESCO vinh danh. Nhân cách Người quá lớn. Nhưng nhà thơ Tố Hữu, người đầu tiên đã ảnh hưởng cụ thể đến sự nghiệp thơ ca của tôi. Ngày ấy, tôi mới bảy tám tuổi, rất yêu thơ nhưng làng tôi ở Nông Cống, xa thành phố, làm gì có sách mà đọc, chưa nói thơ như là của hiếm. May sao, bố tôi về phép mang tặng tôi tập thơ Từ ấy. Tôi đọc thuộc rất nhiều bài nhưng thích nhất vẫn là bài thơ Từ ấy. Bài thơ Từ ấy ngắn như là một tuyên ngôn thơ, một tuyên ngôn sống có lý tưởng mà bố tôi đã giảng cho tôi nghe cho dù lúc đó tôi mới hiểu rất lờ mờ về lý tưởng, về cái Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ. Nhưng lý tưởng của Tố Hữu về Cách mạng, về con đường đi tới tương lai và cách sống là ảnh hưởng sâu sắc nhất thời ấu thơ, dù lúc đó tôi còn là một cậu thiếu niên, nhưng lý tưởng của Tố Hữu và Từ ấy đã đi theo tôi suốt đời:

Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cận cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nói thẳng

Bao khổ ấy, thôi cần chi nói nữa
Bạn đời ơi! Ta đã hiểu nhau rồi
                 
(Trăng trối - tập thơ Từ ấy)

Những câu thơ hừng hực tuổi hai mươi, sáng như chân lý, lý tưởng cách mạng đã ngấm vào hồn tôi.

Những ngày thơ chăn trâu cắt cỏ ở quê nhà Nông Cống, chiều chiều đi đón trâu về, tôi mang theo tập thơ Từ ấy để đọc và tôi đã thuộc lòng nhiều bài thơ trong tập. Tôi còn nhớ, lời giới thiệu tập thơ do nhà thơ Xuân Diệu viết dài đến 30 trang và chữ rất nhỏ. Sau này, tôi yêu Huế vì đã đọc thuộc lòng bài Quê mẹ với những câu nhớ nhung da diết quê nhà:

Huế ơi, quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười

Những câu thơ chứa đầy giai điệu nhạc Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng/ Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi... nó ám ảnh một đời thơ tôi.

Bài thơ Mẹ Tơm, tôi đọc những năm học cấp 3 cho tôi yêu một quê nhà Xứ Thanh của tôi. Phân tích bài thơ Mẹ Tơm, tôi đã được điểm cao nhất khi đi thi học sinh giỏi những năm 60 của thế kỷ XX. Vẫn là những câu thơ da diết kéo dài giai điệu nhạc: Hòn Nẹ ta ơi, mảng về chưa đó/ Có nhiều không con Nục con Thu/ Chào những buồm nâu, thuyền câu Diêm Phố/ Nhớ nhau chăng hỡi Hanh Cát, Hanh Cù. Đến nỗi, khi mẹ tôi sinh em út Lê Thị Hương Thơm. Ru em Thơm, tôi đã ru thơ Tố Hữu.

Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm
Bầm ơi có rét không Bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn...
                                         
(Bầm ơi)

Em Thơm tôi lớn lên, bảy tám tuổi, tôi đã dạy em đọc thuộc lòng bài thơ Bầm ơi, bài Ta đi tới. Rồi các con tôi ra đời, Lê Thanh Phúc, Lê Thị Mỹ Hạnh, tôi đều ru các cháu bằng thơ Tố Hữu.

Tôi cảm ơn bố tôi, cảm ơn tập thơ Từ ấy của Tố Hữu đã hướng tôi vào đời để những năm tuổi thơ tôi đẹp như một bông hồng tươi. Nhưng khổ nỗi, một mặt bố tôi rất thích tôi theo nghiệp văn chương, vì những năm phổ thông, tôi giỏi văn; nhưng mặt khác ông lại sợ tôi dấn thân vào văn chương như trẻ con chơi với dao. Ông cũng không muốn tôi đi theo văn chương đến trọn đời, ông sợ tôi khổ. Tôi mơ ước trở thành nhà thơ và học đại học tổng hợp Văn. Mơ ước không thành. Tôi học đại học Mỏ Địa Chất theo tâm nguyện của bố tôi để trở về quê nhà làm mỏ và gần mẹ tôi. Tôi không quên được những năm dạy bổ túc văn hóa cho công nhân mỏ Chromite Thanh Hóa. Tôi được phân công dạy văn. Một lần các trường thi bình giảng văn. Tôi đã chọn bài Cô gái sông Hương của Tố Hữu để giảng mẫu và thật bất ngờ, bài giảng mẫu ấy được giải thưởng. Cái giải thưởng nhỏ thôi, lúc ấy tôi coi là đã to và tôi vẫn nhớ mãi cho đến tận bây giờ. Những câu thơ ám ảnh và ấn tượng thơ có giai điệu như nhạc:

Trên dòng Hương giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo,
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên dòng Hương giang
Trăng lên
Trăng đứng
Trăng tàn
Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng

Ngày nhà thơ Tố Hữu mất, 9/12/2002. Năm ấy, tôi đã vào Hội Nhà văn Việt Nam. Mình chỉ là học trò của những học trò nhà thơ Tố Hữu. Nhưng ngưỡng mộ ông mà tôi đi viếng. Tôi lọt thỏm như muối bỏ biển giữa những nhà thơ lớn có mặt trong ngày tang lễ nhà thơ Tố Hữu: Nhà văn Nguyễn Đình Thi, nhà thơ Huy Cận, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Lê Đình Cánh, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Bằng Việt... Sân nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông rộng mêng mông nhưng hôm ấy chật ních người đưa tang. Ở Thanh Hóa, ngoài lãnh đạo tỉnh ra dự (nhà thơ Tố Hữu có thời gian 1946 là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa) còn có một đoàn bà con huyện Hậu Lộc, quê mẹ Tơm ra dự đám tang nhà thơ lớn. Quê nhà Quảng Điền, những tiếng Huế thân thương và đầm ấm giữa lòng Hà Nội. Và tôi bất ngờ thấy lớp lớp các đồng bào dân tộc ở Kon Tum, mang chiếc tù và to bằng bắp tay đi viếng nhà thơ Tố Hữu. những người dân Buôn Mê Thuột, áo dân tộc Ba Na có mặt ở sân nhà tang lễ Quốc gia. Nhìn thấy họ, trong tôi vang lên những câu thơ:

Núi hỡi từ đây băng xuống đó
Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm trường?

Tố Hữu hỏi núi và ý tưởng vượt ngục đã hình thành từ khi vào tù. Và:

Đường lên Đăk Sút, Đăk Pao
Đèo heo tút gió, cầu treo mặt gềnh...

Tôi yêu thơ Tố Hữu với những bài thơ phơi phới một niềm tin cho lý tưởng ngày mai. Vì yêu thơ Tố Hữu nên tôi yêu Huế. Và sau giải phóng, tôi đã đến Huế, quê hương của nhà thơ. Quê hương của những câu thơ:

Huế ơi, quê mẹ của ta ơi
Nhớ tự ngày xưa, tuổi chín mười
Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng
Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi

Tôi đã đi cùng dân vạn chài trên phá Tam Giang một trưa mùa Thu và đọc thơ giữa bao la trời đất, những câu thơ Tố Hữu, giai điệu đầy chất nhạc:

Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá,
Đò từ Vỹ Dạ, thẳng ngã ba Sình,
Lờ đờ bóng ngả trăng chênh

Những người dân vạn chài chưa bao giờ nghe thơ Tố Hữu, tôi đã đọc lại lần hai cho họ nghe.

Huế chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu từ năm 2017

Yêu thơ Tố Hữu và lý tưởng cách mạng của ông, tôi yêu cả cái tên Quảng Điền quê hương ông và mơ ước cuối đời tôi thật đơn giản là được một lần đến thăm đất Phù Lai vẫn tốt cà. Và rồi tôi đã đến Quảng Điền. Tháng 9 năm 2019, tôi về Huế. Và chính về Huế tôi mới biết, ngay từ năm 2017, ở Huế đã chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu rất trang trọng (4/10/1920 - 4/10/2020) quy mô lớn như thế nào (Triển lãm sách, hình ảnh tư liệu về nhà thơ Tố Hữu; Thi tìm hiểu về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của ông; Liên hoan nghệ thuật quần chúng chủ đề “Đất nước anh hùng ca”; Phát hành tập thơ gồm các tác phẩm của nhà thơ Tố Hữu viết về quê hương Thừa Thiên Huế và tổ chức buổi Tọa đàm ra mắt; Tổ chức Hội thảo đồng chí Tố Hữu với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế; Tổ chức Lễ dâng hương, đặt vòng hoa và khánh thành công trình Nhà lưu niệm đồng chí Tố Hữu. Lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Tố Hữu, Đêm thơ Tố Hữu và chương trình nghệ thuật sẽ được truyền hình trực tiếp trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Thừa Thiên Huế).

Tôi đã đến thăm: làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, quê nhà thơ Tố Hữu. Bí thư Huyện ủy Quảng Điền Hoàng Đăng Khoa nói với tôi qua điện thoại về các di tích và nhà lưu niệm ở Quảng Điền làm tôi nảy ra ý định thăm nhà lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà ngày xưa khi Đại tướng đi chiến trường, nhà thơ Tố Hữu viết:

Đưa tiễn anh đi mấy dặm đường
Nặng tình đồng chí lại đồng hương
Đã hay đâu cũng say tiền tuyến
Mà vẫn bâng khuâng mộng chiến trường

Tôi phải cảm ơn cháu gái tôi, Hà Thu Hằng, người đã bỏ ra một ngày trời, lái xe để đưa vợ chồng tôi đi thăm Di tích khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, thăm làng Phù Lai, quê nhà thơ Tố Hữu. Mảnh đất Phù Lai, địa linh sinh nhân kiệt, còn lại những câu thơ:

Mà đất Phù Lai vẫn tốt cà
Mà quýt Hương Cần ta vẫn ngọt

Hôm ấy tôi đến Phù Lai. Nhà xưa đã dỡ đi, nhà mới trong khu tưởng niệm còn chưa dựng. Cạnh đó, căn nhà cháu ruột nhà thơ Tố Hữu đã xây lên hai tầng khang trang. Ngoài kia, những bề bộn công trường, chuẩn bị cho 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu, năm 2020. Tôi không để ý những bề bộn ấy, những bề bộn để chuẩn bị cho một năm tới, quê xưa của nhà thơ Tố Hữu đẹp như xưa. Nhưng tôi chú ý ngoài vườn xưa, giữa hai cây khế, người mẹ trẻ đang nằm ru con trên võng bằng chiếu cói ngày xưa. Đứa bé chắc là chưa đầy 3 tháng tuổi. Giọng ru ngái ngủ, lặng dần trong chiều đất Phù Lai:

À ơi... ru con con ngủ cho muồi
Nước non chưa gánh, mẹ ngồi mẹ ru

Cô gái là cháu hay chắt nhà thơ Tố Hữu, tôi không cần biết, nhưng giọng ru Huế xa dần, nhỏ dần làm tôi nhớ người xưa, một nhà thơ tài hoa và trong sáng trọn đời.

Thơ Tố Hữu đã hòa vào dân gian

Những năm tuổi thơ, tôi vẫn nhớ tiếng ru con trưa hè của bà Đăng ở xóm Trại nhà tôi, xã Tân Khang, Nông Cống:

Bầm ơi có rét không Bầm!
Heo heo gió núi lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy Bầm run
Chân lội xuống bùn, tay cấy mạ non.

Tôi lại nhớ tiếng ru của chú họ tôi, ông Lê Thanh Điệc, ru con vào một đêm Đông. Tôi đến sân nhà chú. Tiếng ru văng vẳng trong nhà, nghe một lần mà tôi nhớ đến trọn đời:

Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mãi sau này, lớn lên, đi học cấp ba tôi mới biết những câu thơ ấy là trong bài Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu.

Một lần, nói chuyện qua điện thoại với tôi, ông Nguyễn Công Mịch, Nguyên Bí thư Huyện ủy Sơn Dương, nói: Trong các nhà thơ thế hệ trước, tôi yêu quý nhất Tố Hữu. Khi sắp mất, ông đã tặng bạn bè bài thơ ngắn, sâu sắc như một quan niệm sống ở đời. Rồi ông đọc qua điện thoại:

Sống là cho, chết cũng là cho.

Thế là Tố Hữu đã để lại cho người đời tất cả triết lý sống trong sáng của mình để rồi thanh thản ra đi. Nghe thế đủ biết, thơ Tố Hữu đã hòa vào dân gian.

Người đời vẫn nhớ thơ Tố Hữu

Những người đã nghiên cứu về thơ Tố Hữu, đã sống với nhà thơ Tố Hữu, đều nói về thơ ông những lời sâu sắc. Đọc bài Ánh sáng của chân lý và hương hoa trên đường thơ Tố Hữu (GS Hà Minh Đức - Tạp chí Hồn Việt, số 146, tháng 4/2020) viết: “Người đã đi xa nhưng còn để lại cho đời một di sản văn hóa đặc biệt là thi ca, những bài thơ là chấm son điểm tô cho từng giai đoạn của cách mạng, những đài thơ kỷ niệm cho những sự kiện vinh quang của đất nước”. Giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định một lần nữa sự nhất quán về quan điểm sống và viết của nhà thơ Tố Hữu rồi.

Ông Nguyễn Đình Hương, Nguyên Phó Ban thường trực Ban Tổ chức Trung ương, Nguyên Trưởng Ban Bảo vệ chính trị nội bộ, người bạn làm việc 40 năm với nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Thơ Tố Hữu quyến rũ tôi một phần thì phong cách sống của ông làm tôi say mê gấp mười lần. Một con người sống giản dị, hòa mình, không phân biệt đối xử...”. (Tạp chí Hồn Việt, số 148, tháng 6 năm 2020, trang 74).

Ông Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng, đã nói về thơ Tố Hữu: “Nói đến văn thơ là phải nói đến anh Tố Hữu, những câu thơ chúng tôi thích nhất và cho là tuyệt tác. Đấy là những câu thơ đến bây giờ chúng tôi vẫn nhớ:

Dậy mà đi
Đừng tiếc nữa, can chi mà tiếc mãi
Ai chiến thắng mà không hề chiến bại
Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần

(Dậy mà đi, trong tập thơ Từ ấy. Tạp chí Hồn Việt, trang 20, số 150, tháng 8 năm 2020).

Ngày 27/7/2020, trong lễ tri ân những người mẹ Việt Nam anh hùng, khi nói về công lao của những người mẹ Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đọc hai câu thơ Tố Hữu, trong bài thơ Bầm ơi:

Con đi đánh giặc 10 năm,
Không bằng khó nhọc đời Bầm 60

Thú thật, ngồi trước màn hình, tôi rất xúc động khi nghe hai câu thơ ấy. Như vậy, từ đêm đông năm 1960 ở quê nhà, nghe chú họ Lê Thanh Điệc ru con: Lòng ta ơn Bác đời đời/ Ngược xuôi đôi mặt một lời song song... (Việt Bắc) đến ngày 27/7/2020 đã là 60 năm Thơ tố Hữu vẫn sống trong lòng người, thơ ông đã thành dân gian.

Tôi mãi mãi ngưỡng mộ một con người, sống trong sáng và thơ cũng mãi trong sáng như lý tưởng của ông, Từ ấy, trong tôi bừng nắng hạ. Câu thơ đã gần một thế kỷ và người cũng đã về thiên cổ gần 20 năm. Cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, nhà thơ mới thốt lên:

Tạm biệt đời ta yêu quý nhất
Còn mấy vần thơ, một nắm tro
Thơ tặng bạn đường, tro bón đất
Sống là cho, chết cũng là cho.
                 
(Tạm biệt, năm 2002).

Và tôi nghĩ, tư tưởng lớn của nhà thơ Tố Hữu đã làm ông nhẹ lòng thanh thản ra đi.

Nhà thơ Tố Hữu, thế mà đã trăm năm!

Hồ Linh Đàm, Hà Nội, 20/8/2020

L.T.L
(SHSDB38/09-2020)

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)