Ấn tượng thị giác từ 'Thôn ca' của Đoàn Văn Cừ

10:17 16/05/2014

LÝ HOÀI THU

Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ - Ảnh: internet

Cũng như Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bính - hai nhà thơ đồng hương nổi tiếng, thơ Đoàn Văn Cừ in đậm dấu ấn đặc trưng của đời sống và thiên nhiên xứ Bắc: từ một ngôi Làng, Người làng, Đồng làng, Tục làng đến phiên Chợ làng vào xuân, lễ Tế thánh, Đêm trăng xanh; từ một căn Nhà tranh, một Xóm nhỏ đến một Ngôi đình, một con Đường về quê mẹ; từ Ngày mùa, Đám hội đến Đám cưới mùa xuân, Chơi xuân; từ một Bữa cơm quê đến Chợ Tết;… Rồi bình minh, nắng xuân, trăng hè, gió thu, đêm đông; rồi sáng, trưa, chiều, tối; rồi trâu, bò, gà, vịt, vv và vv… Có thể thấy, với Thôn ca, một lần nữa, cảnh và người vùng nam Bắc bộ đã được thị giác hóa bởi một lối viết đặc biệt nhạy cảm trước sắc màu, hình ảnh, một thứ thơ rất gần với hội họa, mang tính họa. Chính vì lẽ đó, trong Thi nhân Việt Nam, khi xếp Đoàn Văn Cừ vào nhóm thơ tả chân (gồm Nam Trân, Anh Thơ, Bàng Bá Lân,…), Hoài Thanh đã khẳng định: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”.

Là một hồn thơ được nuôi dưỡng bằng những tình cảm hồn hậu, mộc mạc, ấm áp và chân tình ở chốn làng quê, thơ Đoàn Văn Cừ, do vậy, cũng mang nhiều nét trong trẻo, lành mạnh, tươi sáng và thấm đẫm bản sắc Việt. Đường viền không gian và thế giới nghệ thuật của tập thơ dường như chỉ được bao bọc bởi khuôn viên làng, một hình ảnh thân thuộc trong tâm thức người Việt - những cư dân của nền “văn minh lúa nước”:

Làng tôi: mươi chục nóc nhà tranh
Một ngọn chùa cao, một nóc đình
Một rặng tre già vươn chót vót
Một dòng sông trắng chảy vòng quanh…

 
Cứ thế làng tôi tháng lại năm
Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm,
Đời như mặt nước ao tù lắng,
Gió lạ không hề thổi gợn tăm

                                    (Làng)

Dễ nhận thấy ở đây sự giao thoa giữa Đoàn Văn Cừ với Nguyễn Khuyến - nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam - trong sự cảm nhận, chọn lựa và khắc họa những bức tranh quê đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ (vùng chiêm trũng): Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo (Thu điếu); Năm gian nhà cỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe/ Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe (Thu ẩm)… Việc thiếu vắng những hình ảnh núi cao, sông rộng, những “sơn thủy hữu tình”, non xanh nước biếc… cho thấy sự chi phối của những đặc điểm riêng trong mô hình cấu trúc không gian văn hóa vật thể, của hệ sinh thái môi trường, địa lý, đến cái nhìn nghệ thuật và đặc sắc thi pháp của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên mà những “điểm nhấn” trở đi trở lại khá nhiều trong thơ của cả hai ông là chiếc ao làng, cầu tre ruộng lúa, những gian nhà cỏ mái rạ vách bùn, những ngõ tối quanh co, cồn xanh bãi tía… Dĩ nhiên giữa hai người là một khoảng cách thời gian dài, là hai thế hệ thi nhân với sự khác biệt về tâm hồn và “cách biểu đạt tâm hồn”. Thơ Nguyễn Khuyến nhiều tâm sự, nỗi niềm nhưng trầm mặc và lắng đọng. Đoàn Văn Cừ là nhà thơ thuộc Phong trào thơ mới, trẻ tuổi và trẻ lòng. Những nét vẽ trong thơ ông giàu cảm xúc, truyền tải phong vị dân gian thuần khiết, hồn nhiên và tươi sáng. Mỗi bài thơ là một cuốn “phim mi-ni”, một bức tranh với nhiều gam màu nổi bật và đường nét sinh động về cảnh quê lẫn hồn quê đất Việt. Bài Chợ Tết mở đầu bằng những phác thảo viễn cảnh:

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết


Và dừng lại ở sự đặc tả những chi tiết tươi vui, ngộ nghĩnh:

Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu…
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc ao the xanh…
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà trống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem…


Nhiều bài thơ khác trong Thôn ca như Trăng hè, Thu, Mùa xuân, Đám hội, Đám cưới mùa xuân, Đàn gà vịt, Đêm trăng xanh, Nét chấm phá,… đều được tạo dựng bởi sự xếp đặt sắc màu và lắp ghép hình ảnh. Song, tất cả dường như không theo một trật tự kết cấu hài hòa, chặt chẽ của thi pháp cổ điển mà có sự mở rộng kích thước theo nhịp điệu tâm trạng. Cùng được tắm gội trong bầu không khí của văn hóa Folklore nhưng nếu như Nguyễn Bính luôn có sự giằng co, phân thân giữa thôn dân và thị dân, sự “dan díu” giữa đô thành và làng mạc… và những bài thơ viết về: “Hội chèo làng Đặng”, “Hội làng”, “Quan trạng”, “Truyện cổ tích”… đều gắn với hai nhân vật trữ tình là “anh” và “em”, suy cho cùng nó vẫn là câu chuyện của tình yêu đôi lứa: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”/… Chờ mãi anh sang anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng/… Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày/ Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày” (Mưa xuân); thì đời sống nội tâm của Đoàn Văn Cừ có phần nhẹ nhõm, hồn nhiên và tươi trẻ hơn. Nhiều bài thơ như một tự sự nhỏ, hướng đến tâm lý “cộng đồng” mà ít phần riêng tư, cá nhân. Ngay cả nụ cười dí dỏm ẩn giấu sau mấy câu thơ:

Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát
Một chị đang du ngửa tít trên không,
Cụ lý già dừng lại ngửa đầu trông
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh

                                    (Đám hội)

thì nó vẫn là cái nhìn ngây thơ, trong sáng, hòa quyện vào niềm vui tập thể trẻ trung, sôi động mà thanh thản. Cảnh vật và thiên nhiên trong thơ Đoàn Văn Cừ ít mang sắc thái “ngụ tình”. Có lẽ một phần do Thôn ca chưa có những bài thơ tình đúng nghĩa (Bài Lá thắm chỉ là sự gửi gắm xa xôi…). Thế giới nhân vật đám đông, già, trẻ, gái, trai… trong Thôn ca hiện lên mộc mạc, vô tư và tự nhiên gần gũi. Họ là con người của những cuộc vui, từ dáng điệu đến gương mặt, ánh mắt, nụ cười long lanh “ngũ sắc” đều gắn với không khí phấn chấn, tưng bừng của lễ hội. Đó thực sự là những bức tranh dân gian tươi tắn, nhiều màu, đầy sức sống; là sự biểu thị những hằng số văn hóa của một vùng đất đai, xứ sở ẩn chứa nhiều trầm tích.

Thơ Đoàn Văn Cừ thiên về bút pháp tả thực và hệ thống hình ảnh, chi tiết khá rườm rà trong thơ ông, vì vậy, mang đậm tính trực quan. Những phong tục tập quán lâu đời, những ký ức, hoài niệm tưởng đã lùi chìm vào dĩ vãng xa xăm, dưới ngòi bút miêu tả tỉ mỉ của ông trở nên cụ thể, sinh động, có hình, có nét:

Tết: bánh chưng xanh xếp chật nồi
Con vàng sợ pháo chạy cong đuôi
Cô nào đi lễ khăn vuông mới
Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi

                                    (Làng)

Hoặc:

Nhà có con trai mới vấn danh,
Sang chơi nhà gái kết thân tình.
Đầu năm lễ tổ: con gà trống
Ngày tết mùng Năm: thúng đỗ xanh…


Chùa xóm làm ngay ở mé ngòi
Trong ba ngày Tết cũng gà xôi,
Cúng xong các cụ chia gà biếu:
Bốn cụ ngồi trên biếu bốn đùi

                                    (Tục làng)

Những phạm trù thời gian: sáng, trưa, chiều, tối; những xuân, hè, thu, đông vốn trừu tượng, vô hình đã được Đoàn Văn Cừ hữu hình hóa bằng một làn khói, một màu mây, một vòm trời, một tia nắng, một cánh buồm, một hàng tre hút gió… Tuy nhiên, bên cạnh phương thức tạo lập thế giới nghệ thuật thơ bằng hệ thống hình ảnh thiên về “tả chân”, thi thoảng tư duy thơ Đoàn Văn Cừ đột ngột chuyển hóa vào những liên tưởng giàu sức gợi, mang đậm tính thơ và ý nghĩa khái quát:

Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau


Đó là hai câu thơ thăng hoa từ vô số những chi tiết thực mang “dáng dấp văn xuôi” (kể và tả) của bài Chợ Tết. Những câu thơ được đánh giá là độc đáo bậc nhất của Đoàn Văn Cừ không chỉ ở sự mới lạ của trí tưởng tượng mà còn ở độ kết tinh, hóa thạch, ở khả năng thị giác hóa biểu tượng văn hóa tâm linh và dòng chảy thời gian - đời người. Ở một số bài thơ khác và từ một cấp độ khác, Đoàn Văn Cừ cũng tạo được những cái kết thúc khá ấn tượng cho bài thơ mà Hoài Thanh gọi đó là những câu thơ “khép lại một thế giới và mở ra một thế giới: khép lại một thế giới thực, mở ra một thế giới mộng” (Thi nhân Việt Nam):

Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng

                        (Đám cưới mùa xuân)

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ

                                    (Chợ Tết)

Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ

                                    (Trăng hè)

Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, nhờ có kiểu kết đó, bài thơ chứa đựng nhiều tâm trạng, giàu sức biểu hiện hơn. Và sâu xa nữa là sự đồng điệu về tâm hồn, về những cung bậc cảm xúc giữa Đoàn Văn Cừ với những nhà thơ cùng thế hệ. Một thoáng bâng khuâng, man mác, phảng phất buồn… Có nghĩa là, mặc dầu vắng bóng những “chàng - nàng”, “tài tử - giai nhân”… nhưng trước sau Đoàn Văn Cừ vẫn là nhà thơ của trào lưu thơ ca lãng mạn và Thôn ca - tác phẩm đầu tay tạo nên tên tuổi - là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Người phương Đông khẳng định: “Thi trung hữu họa”. Đó là sự đúc kết đặc tính của văn bản, là vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật thơ. Thôn ca của Đoàn Văn Cừ ngập tràn sắc màu (đỏ, vàng, tím, xanh, nâu, trắng, lam hồng, đỏ rực, xanh ngắt, xanh cánh trả, trắng phau phau…) và nhộn nhịp hình bóng con người (bà cụ lão, cụ lý già, thằng em bé, cô gái xứ quê, người cô dâu, “bọn” đô vật, anh bán pháo, bác lái trâu, chị sen, ông Đội…). Đó là một thứ ký hiệu riêng, một “kỹ thuật” viết coi trọng sự quan sát trực giác, một lối thơ “nói” bằng sắc màu, hình ảnh, tạo ấn tượng mạnh về thị giác và là một yếu tố nổi bật trong phong cách thơ Đoàn Văn Cừ.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày tập thơ ra đời, Thôn ca đã lưu giữ được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống cùng cái “nhịp nhàng” của đời sống dân quê thời xưa. Chính vì vậy, trên thi đàn dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, Thôn ca có một vị trí không thể thay thế và nhà thơ Đoàn Văn Cừ vẫn mãi là một gương mặt khả ái, độc đáo của Phong trào thơ mới và rộng hơn là thơ Việt Nam hiện đại.

L.H.T
(SH303/05-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.