Ấn tượng thị giác từ 'Thôn ca' của Đoàn Văn Cừ

10:17 16/05/2014

LÝ HOÀI THU

Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ - Ảnh: internet

Cũng như Nguyễn Khuyến và Nguyễn Bính - hai nhà thơ đồng hương nổi tiếng, thơ Đoàn Văn Cừ in đậm dấu ấn đặc trưng của đời sống và thiên nhiên xứ Bắc: từ một ngôi Làng, Người làng, Đồng làng, Tục làng đến phiên Chợ làng vào xuân, lễ Tế thánh, Đêm trăng xanh; từ một căn Nhà tranh, một Xóm nhỏ đến một Ngôi đình, một con Đường về quê mẹ; từ Ngày mùa, Đám hội đến Đám cưới mùa xuân, Chơi xuân; từ một Bữa cơm quê đến Chợ Tết;… Rồi bình minh, nắng xuân, trăng hè, gió thu, đêm đông; rồi sáng, trưa, chiều, tối; rồi trâu, bò, gà, vịt, vv và vv… Có thể thấy, với Thôn ca, một lần nữa, cảnh và người vùng nam Bắc bộ đã được thị giác hóa bởi một lối viết đặc biệt nhạy cảm trước sắc màu, hình ảnh, một thứ thơ rất gần với hội họa, mang tính họa. Chính vì lẽ đó, trong Thi nhân Việt Nam, khi xếp Đoàn Văn Cừ vào nhóm thơ tả chân (gồm Nam Trân, Anh Thơ, Bàng Bá Lân,…), Hoài Thanh đã khẳng định: “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào mà rực rỡ như Đoàn Văn Cừ”.

Là một hồn thơ được nuôi dưỡng bằng những tình cảm hồn hậu, mộc mạc, ấm áp và chân tình ở chốn làng quê, thơ Đoàn Văn Cừ, do vậy, cũng mang nhiều nét trong trẻo, lành mạnh, tươi sáng và thấm đẫm bản sắc Việt. Đường viền không gian và thế giới nghệ thuật của tập thơ dường như chỉ được bao bọc bởi khuôn viên làng, một hình ảnh thân thuộc trong tâm thức người Việt - những cư dân của nền “văn minh lúa nước”:

Làng tôi: mươi chục nóc nhà tranh
Một ngọn chùa cao, một nóc đình
Một rặng tre già vươn chót vót
Một dòng sông trắng chảy vòng quanh…

 
Cứ thế làng tôi tháng lại năm
Sống bên ruộng lúa, cạnh ao đầm,
Đời như mặt nước ao tù lắng,
Gió lạ không hề thổi gợn tăm

                                    (Làng)

Dễ nhận thấy ở đây sự giao thoa giữa Đoàn Văn Cừ với Nguyễn Khuyến - nhà thơ số một của làng cảnh Việt Nam - trong sự cảm nhận, chọn lựa và khắc họa những bức tranh quê đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ (vùng chiêm trũng): Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/ Sóng biếc theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo (Thu điếu); Năm gian nhà cỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe/ Lưng dậu phất phơ màu khói nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe (Thu ẩm)… Việc thiếu vắng những hình ảnh núi cao, sông rộng, những “sơn thủy hữu tình”, non xanh nước biếc… cho thấy sự chi phối của những đặc điểm riêng trong mô hình cấu trúc không gian văn hóa vật thể, của hệ sinh thái môi trường, địa lý, đến cái nhìn nghệ thuật và đặc sắc thi pháp của nhà thơ. Không phải ngẫu nhiên mà những “điểm nhấn” trở đi trở lại khá nhiều trong thơ của cả hai ông là chiếc ao làng, cầu tre ruộng lúa, những gian nhà cỏ mái rạ vách bùn, những ngõ tối quanh co, cồn xanh bãi tía… Dĩ nhiên giữa hai người là một khoảng cách thời gian dài, là hai thế hệ thi nhân với sự khác biệt về tâm hồn và “cách biểu đạt tâm hồn”. Thơ Nguyễn Khuyến nhiều tâm sự, nỗi niềm nhưng trầm mặc và lắng đọng. Đoàn Văn Cừ là nhà thơ thuộc Phong trào thơ mới, trẻ tuổi và trẻ lòng. Những nét vẽ trong thơ ông giàu cảm xúc, truyền tải phong vị dân gian thuần khiết, hồn nhiên và tươi sáng. Mỗi bài thơ là một cuốn “phim mi-ni”, một bức tranh với nhiều gam màu nổi bật và đường nét sinh động về cảnh quê lẫn hồn quê đất Việt. Bài Chợ Tết mở đầu bằng những phác thảo viễn cảnh:

Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi,
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết


Và dừng lại ở sự đặc tả những chi tiết tươi vui, ngộ nghĩnh:

Vài cụ già chống gậy bước lom khom
Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ
Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ
Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu…
Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình trong chiếc ao the xanh…
Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha
Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết
Con gà trống mào thâm như cục tiết
Một người mua cầm cẳng dốc lên xem…


Nhiều bài thơ khác trong Thôn ca như Trăng hè, Thu, Mùa xuân, Đám hội, Đám cưới mùa xuân, Đàn gà vịt, Đêm trăng xanh, Nét chấm phá,… đều được tạo dựng bởi sự xếp đặt sắc màu và lắp ghép hình ảnh. Song, tất cả dường như không theo một trật tự kết cấu hài hòa, chặt chẽ của thi pháp cổ điển mà có sự mở rộng kích thước theo nhịp điệu tâm trạng. Cùng được tắm gội trong bầu không khí của văn hóa Folklore nhưng nếu như Nguyễn Bính luôn có sự giằng co, phân thân giữa thôn dân và thị dân, sự “dan díu” giữa đô thành và làng mạc… và những bài thơ viết về: “Hội chèo làng Đặng”, “Hội làng”, “Quan trạng”, “Truyện cổ tích”… đều gắn với hai nhân vật trữ tình là “anh” và “em”, suy cho cùng nó vẫn là câu chuyện của tình yêu đôi lứa: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”/… Chờ mãi anh sang anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên làng/ Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng/… Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày/ Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ/ Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày” (Mưa xuân); thì đời sống nội tâm của Đoàn Văn Cừ có phần nhẹ nhõm, hồn nhiên và tươi trẻ hơn. Nhiều bài thơ như một tự sự nhỏ, hướng đến tâm lý “cộng đồng” mà ít phần riêng tư, cá nhân. Ngay cả nụ cười dí dỏm ẩn giấu sau mấy câu thơ:

Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát
Một chị đang du ngửa tít trên không,
Cụ lý già dừng lại ngửa đầu trông
Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh

                                    (Đám hội)

thì nó vẫn là cái nhìn ngây thơ, trong sáng, hòa quyện vào niềm vui tập thể trẻ trung, sôi động mà thanh thản. Cảnh vật và thiên nhiên trong thơ Đoàn Văn Cừ ít mang sắc thái “ngụ tình”. Có lẽ một phần do Thôn ca chưa có những bài thơ tình đúng nghĩa (Bài Lá thắm chỉ là sự gửi gắm xa xôi…). Thế giới nhân vật đám đông, già, trẻ, gái, trai… trong Thôn ca hiện lên mộc mạc, vô tư và tự nhiên gần gũi. Họ là con người của những cuộc vui, từ dáng điệu đến gương mặt, ánh mắt, nụ cười long lanh “ngũ sắc” đều gắn với không khí phấn chấn, tưng bừng của lễ hội. Đó thực sự là những bức tranh dân gian tươi tắn, nhiều màu, đầy sức sống; là sự biểu thị những hằng số văn hóa của một vùng đất đai, xứ sở ẩn chứa nhiều trầm tích.

Thơ Đoàn Văn Cừ thiên về bút pháp tả thực và hệ thống hình ảnh, chi tiết khá rườm rà trong thơ ông, vì vậy, mang đậm tính trực quan. Những phong tục tập quán lâu đời, những ký ức, hoài niệm tưởng đã lùi chìm vào dĩ vãng xa xăm, dưới ngòi bút miêu tả tỉ mỉ của ông trở nên cụ thể, sinh động, có hình, có nét:

Tết: bánh chưng xanh xếp chật nồi
Con vàng sợ pháo chạy cong đuôi
Cô nào đi lễ khăn vuông mới
Chiếc yếm đào trông đến đẹp tươi

                                    (Làng)

Hoặc:

Nhà có con trai mới vấn danh,
Sang chơi nhà gái kết thân tình.
Đầu năm lễ tổ: con gà trống
Ngày tết mùng Năm: thúng đỗ xanh…


Chùa xóm làm ngay ở mé ngòi
Trong ba ngày Tết cũng gà xôi,
Cúng xong các cụ chia gà biếu:
Bốn cụ ngồi trên biếu bốn đùi

                                    (Tục làng)

Những phạm trù thời gian: sáng, trưa, chiều, tối; những xuân, hè, thu, đông vốn trừu tượng, vô hình đã được Đoàn Văn Cừ hữu hình hóa bằng một làn khói, một màu mây, một vòm trời, một tia nắng, một cánh buồm, một hàng tre hút gió… Tuy nhiên, bên cạnh phương thức tạo lập thế giới nghệ thuật thơ bằng hệ thống hình ảnh thiên về “tả chân”, thi thoảng tư duy thơ Đoàn Văn Cừ đột ngột chuyển hóa vào những liên tưởng giàu sức gợi, mang đậm tính thơ và ý nghĩa khái quát:

Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ
Nước thời gian gội tóc trắng phau phau


Đó là hai câu thơ thăng hoa từ vô số những chi tiết thực mang “dáng dấp văn xuôi” (kể và tả) của bài Chợ Tết. Những câu thơ được đánh giá là độc đáo bậc nhất của Đoàn Văn Cừ không chỉ ở sự mới lạ của trí tưởng tượng mà còn ở độ kết tinh, hóa thạch, ở khả năng thị giác hóa biểu tượng văn hóa tâm linh và dòng chảy thời gian - đời người. Ở một số bài thơ khác và từ một cấp độ khác, Đoàn Văn Cừ cũng tạo được những cái kết thúc khá ấn tượng cho bài thơ mà Hoài Thanh gọi đó là những câu thơ “khép lại một thế giới và mở ra một thế giới: khép lại một thế giới thực, mở ra một thế giới mộng” (Thi nhân Việt Nam):

Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân
Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng

                        (Đám cưới mùa xuân)

Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê
Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ

                                    (Chợ Tết)

Sao trời từng chiếc rơi thành lệ
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ

                                    (Trăng hè)

Cũng cần phải nhấn mạnh thêm, nhờ có kiểu kết đó, bài thơ chứa đựng nhiều tâm trạng, giàu sức biểu hiện hơn. Và sâu xa nữa là sự đồng điệu về tâm hồn, về những cung bậc cảm xúc giữa Đoàn Văn Cừ với những nhà thơ cùng thế hệ. Một thoáng bâng khuâng, man mác, phảng phất buồn… Có nghĩa là, mặc dầu vắng bóng những “chàng - nàng”, “tài tử - giai nhân”… nhưng trước sau Đoàn Văn Cừ vẫn là nhà thơ của trào lưu thơ ca lãng mạn và Thôn ca - tác phẩm đầu tay tạo nên tên tuổi - là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của ông.

Người phương Đông khẳng định: “Thi trung hữu họa”. Đó là sự đúc kết đặc tính của văn bản, là vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật thơ. Thôn ca của Đoàn Văn Cừ ngập tràn sắc màu (đỏ, vàng, tím, xanh, nâu, trắng, lam hồng, đỏ rực, xanh ngắt, xanh cánh trả, trắng phau phau…) và nhộn nhịp hình bóng con người (bà cụ lão, cụ lý già, thằng em bé, cô gái xứ quê, người cô dâu, “bọn” đô vật, anh bán pháo, bác lái trâu, chị sen, ông Đội…). Đó là một thứ ký hiệu riêng, một “kỹ thuật” viết coi trọng sự quan sát trực giác, một lối thơ “nói” bằng sắc màu, hình ảnh, tạo ấn tượng mạnh về thị giác và là một yếu tố nổi bật trong phong cách thơ Đoàn Văn Cừ.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày tập thơ ra đời, Thôn ca đã lưu giữ được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống cùng cái “nhịp nhàng” của đời sống dân quê thời xưa. Chính vì vậy, trên thi đàn dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, Thôn ca có một vị trí không thể thay thế và nhà thơ Đoàn Văn Cừ vẫn mãi là một gương mặt khả ái, độc đáo của Phong trào thơ mới và rộng hơn là thơ Việt Nam hiện đại.

L.H.T
(SH303/05-14)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Linda Lê, nhà văn nữ, mẹ Pháp cha Việt, sinh năm 1963 tại Đà Lạt, hiện đang sống tại Paris, viết văn, viết báo bằng tiếng Pháp. Một số tác phẩm của nhà văn đã được dịch sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam như là: Vu khống (Calomnies), Lại chơi với lửa (Autres jeux avec le feu). Chị đã có buổi nói chuyện tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Huế vào ngày 15.10.2010 vừa rồi. Sau khi trao đổi về bản dịch, chị đã đồng ý cho phép đăng nguyên văn bài nói chuyện này ở Tạp chí Sông Hương theo như gợi ý của dịch giả Lê Đức Quang.

  • LÊ TIẾN DŨNGKhi nói đến thơ một vùng đất, thường người ta vẫn chú ý nhiều đến những vấn đề như tác phẩm, thể loại, đội ngũ… nghĩa là tất cả những gì tạo nên phong trào thơ của một vùng.

  • LẠI NGUYÊN ÂN(Trích đăng một phần tiểu luận)

  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

  • PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

  • VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.

  • LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.