Ân tình với Huế của Huy Cận

14:29 16/10/2008

ĐOÀN TRỌNG HUY

Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

Nhà thơ Huy Cận khi trẻ

Huy Cận đã có rất nhiều kỷ niệm sâu sắc và đầy ân tình với Huế. Đó là nơi hoàn tất bậc học cơ bản, nảy nở hồn thơ và ấp ủ nuôi dưỡng con người chính trị của người thanh niên trí thức giàu lòng yêu nước. Ông đã thể hiện những tình cảm đẹp đó qua nhiều vần thơ, nhất là trên những trang văn hồi ký được hoàn thành trước lúc ra đi mãi mãi không bao lâu (Tuyển tập Huy Cận I, II - 1986, 1995 - Hồi ký song đôi I, II - 2003).

HUẾ, NƠI HÌNH THÀNH TRI THỨC VÀ NHÂN CÁCH TUỔI TRẺ.
Nhà nghèo, ở miền sơn cước Nghệ Tĩnh, Huy Cận may mắn được ông cậu đưa vào Quảng Điền rồi Huế để ăn học. Phải nói đây là sự chuyển đổi một thế giới cả về cảnh vật lẫn sinh hoạt. Cậu bé nhà quê từng chăn trâu và chơi các trò dân giã nơi đồng bãi nay được nhập vào một khung cảnh khác hẳn. Trước là huyện lỵ (Quảng Điền) sau là thành phố Kinh Đô cổ kính một thời.
Một không gian mới với đất trời cảnh sắc mới được mở ra theo con mắt trẻ thơ. Lần đầu tiên Huy Cận gặp biển trong chuyến đi chơi Thuận An, từ Đập Đá qua Nam Phổ. Bừng lên trước mắt là cái mênh mông xanh của biển. Tắm mình trong gió và khối xanh bát ngát. Trạng thái tâm hồn dạt dào rộng mở và lắng sâu. Huy Cận nhận tình yêu đầu tiên với biển và bộc lộ “từ đó đến nay tôi mê biển như một nỗi niềm”. Biển rộng mở mà lắng sâu, dào dạt làm say mê và cũng yên tâm vô cùng. Sống với Huế là sống với cảnh đẹp của sông Hương, núi Ngự. Một thiên nhiên mới đa dạng về hình thể, cảnh tượng sẽ là những hình ảnh đẹp nhập vào tâm hồn thơ trẻ.

Ngoài nhà trường, lớp học còn là bao quang cảnh sống động của cuộc đời xung quanh. Cũng là một thế giới rộng mở với sinh hoạt thị thành của ánh sáng điện, của ấn tượng văn minh in vào trí óc non trẻ. Như vậy là ngoài kiến thức sách vở còn biết bao điều lạ của đời sống thực tại, một thực tế mới đã xâm nhập tâm trí cậu học sinh.
Về trình độ văn hóa, liên tiếp từng năm học là những bước đi lên những đỉnh cao mới. Cậu thiếu niên trở thành thanh niên ham mê học hỏi luôn dấn bước và chiếm lĩnh được một cái nền học vấn cơ bản qua ba cấp học lại luôn luôn là người đi đầu để thực hiện cái chí lớn, những phương châm sống tích cực tràn đầy nghị lực. Biết bao chân trời mới về khoa học mở ra có sức hấp dẫn mạnh mẽ người thanh niên đầy khát vọng trí thức.
Tuy nhiên điều quan trọng là sự trau dồi kiến thức, học vấn đi liền với sự hình thành nhân cách con người chân chính nhất là trong hoàn cảnh xã hội cũ đầy bạc ác, bất công của bọn thực dân thống trị: “Biết cắn răng chịu thiệt, đứng vững gót mà làm người”.

Theo khoa học tâm lý, tuổi dậy thì dễ gây biến động và khủng hoảng tâm lý. Như tự thuật chân thành, Huy Cận vào loại dậy thì sớm, (khoảng 12, 13 tuổi) và rất may vượt nhanh được sự bùng nổ hỗn loạn của tâm lý để phát triển bình thường theo chiều hướng tích cực. Dấu hiệu tốt đầu tiên là sự tìm bạn như để thỏa mãn một yêu cầu giao lưu đầu tiên của tuổi vi thành niên. Tựu trường (1938) ghi lại kỷ niệm đẹp của tuổi “mực tím” một thời: “Lòng thơm ngát” “nỗi xôn xao thầm lặng” và những “náo nức của thời trẻ dại”. Huy Cận viết “nói sao hết sự bồi hồi cảm động của những chàng học sinh 13, 14 tuổi đi tìm bạn trong buổi chiều đầu tiên tựu trường (kí túc xá nội trú trường Quốc học Huế). Điều đáng quý là Huy Cận đã kết được bao nhiêu tình bạn, “nó bền chặt cho đến ngày nay”. Về thăm lại trường cũ Huy Cận nhớ câu của một nhà văn: “Sau những cánh cửa đóng kín này còn ngủ lại một phần quá khứ của tôi”, Huy Cận đã sống trong không khí đầm ấm, thanh tao của “một xã hội con trong một xã hội lớn”. Tình thầy trò nảy nở cùng với tình bạn. Cũng rất may là Huy Cận được học nhiều thầy giỏi, có đức độ và có lòng yêu nước thầm kín. Thầy Nguyễn Đình Dụ, thầy Đoàn Nồng, thầy Lê Xuân Phương...

Sau này nhiều thầy trở thành nhà giáo mẫu mực, cán bộ lãnh đạo của nền giáo dục mới, và cậu học trò Huy Cận dù làm tới quan chức cao cấp vẫn về thăm các thầy trong tình cảm thắm thiết, tự hào và trân trọng lẫn nhau.
Hầu như những đức tính cần và đủ cho một thiếu niên đã được hoàn chỉnh ở một cậu học sinh trung học (kỉ luật, chịu khó, ham học, cầu tiến, tự chủ, tự tin, can đảm...) để rồi lại được phát huy lên mức cao ở con người trưởng thành. Một điểm sáng chói trong tâm hồn chàng thanh niên Huy Cận là khát vọng tự do và những ý thức bước đầu về dân tộc. Nhân cách ấy báo hiệu một sự vượt thoát một sự bùng nổ sức mạnh mới cho con người Huy Cận sau này. Và điều cần nói ở đây là, nhà trường đô hộ của thực dân đã thất bại trong mục tiêu muốn biến học sinh thành những con cừu nô lệ. Huy Cận đã tự trang bị cho mình một thứ vũ khí sắc bén là tri thức khoa học, văn hóa để trở thành một con người cần thiết về ý thức và hành vi cho tương lai.

HUẾ - CÁI NÔI LỚN HỒN THƠ VÀ CẢM QUAN VĂN HÓA
Rất nhiều yếu tố đã làm nên nhà thơ trẻ Huy Cận. Gia đình, quê hương, xã hội. Rồi truyền thống văn học, văn hóa, lịch sử dân tộc. Và điều cốt yếu là một bản chất tâm hồn thi sĩ, một cốt cách thi nhân, nhà văn hóa. Đấy  là xét về lí luận, trên cái nhìn tổng thể.

Thực ra có những nguyên nhân rất sâu xa, với một quá trình hình thành dài lâu.
Huy Cận có một vùng quê nên thơ, có đồng ruộng có sông bãi và cả núi non. Thiên nhiên đẹp đẽ và hào phóng đã gợi mở bao rung động xôn xao về cái đẹp trong tâm hồn trẻ thơ. Kể cả những trò chơi phóng khoáng nơi thôn dã cũng đem đến cho cậu bé những cảm xúc lạ lùng. Lớn lên, nhớ về quê là nhớ cả một trời ấn tượng và xúc cảm hồn nhiên. Trí tưởng tượng và mộng mơ tuổi nhỏ như được cất cánh và cùng chắp cánh bay theo những cánh diều Thả tự nắng chiều lên quá núi/ Sang đêm diều lẫn với trời cao... Tiếng trống đất tưởng như hơi thở của đất, của núi rừng cổ xưa, tiếng trống đất tế trời trên núi cũng chính là sáng tạo âm nhạc đầu tiên của tuổi thơ. Cả những tiếng bình dị tưởng chừng vu vơ của tuổi nhỏ đồng quê cũng sẽ là tiếng gọi của thơ “Tiếng gà gáy sáng, nghe nghìn vạn lần vẫn không chán, vẫn dào lòng tin. Tiếng gà gáy gợi cảm về cuộc đời, rất cuộc đời mà cũng rất vũ trụ. Tiếng gà gáy: âm thanh của một sự yên tâm lớn”. Huy Cận đã cảm nghĩ như vậy và đã tự nhủ: “Thơ ơi, hãy có lấy giác quan ánh sáng của gà để gáy sáng, kịp báo hiệu cho đời những bình minh”. (Tiếng gà gáy sáng)

Cái tuổi hồng đồng quê ấy được chắp nối trong trời nước nắng gió Huế vào độ mới lớn của cậu thiếu niên. Bắt đầu là sự tiếp nhận những cảm quan và xúc động mới. Thiên nhiên thường hòa quyện chất thơ. Buổi trưa hè bãi biển dưới những bóng hàng cây phi lao rào rào lay động gió, hai bạn học sinh Quốc học Huy Cận và Sĩ Hiền ngâm ngợi say sưa thơ Đoàn Thị Điểm. Núi Ngự Bình, dưới bóng những cây thông trong nắng chiều vàng, họ lại cùng nhau đọc Giọt lệ thu của bà Tương Phố. Những tình bạn mới nảy nở, những cảnh đời, những số phận vui buồn, cảnh tượng, âm thanh xứ Huế hình như tất cả trở nên những yếu tố “tiền nghệ thuật” của một hồn thơ trẻ. Đoạn hồi ký diễn tả chân thành: “Cây bàng lá rụng, ngọn gió sông hiu hắt, cây bồ hòn đứng lặng trong chiều đông rồi tiếng đàn của ông Cả Soạn, của anh Cháu Đờn, ông xẩm chợ kể vè, rồi tình bạn trẻ thơ, tiếng gió biển trong rừng phi lao, ánh nắng thu trên mái rừng thông, tiếng chuông chùa Diệu Đế, tiếng hò mái nhì, mái đẩy trên sông Hương... Tất cả đã làm xao động trong tôi cái cảm giác thơ” (Nảy nở hồn thơ - Hồi ký song đôi).

Tất nhiên còn phải kể nguồn gốc từ sự tiếp xúc đầu tiên với Truyện Kiều qua ông bố và bà mẹ rất mê Kiều ngâm Kiều và giảng Kiều, từ người hát ví, hát dặm dân gian xứ Nghệ. Và tất nhiên là những rung động thơ ca đến từ tác phẩm trong nhà trường. Tất cả được ươm trồng, vun xới, nảy sinh trên một bầu trời Huế đầy xúc động dạt dào “xanh mượt bờ xanh”. Huế vấn vương của Huy Cận là Huế hoa thiên lý mùi hương thoảng/ Huế tím chiều thu dậy ước mơ, là Huế mà Cỏ cây đây đã hóa vườn trời và những bóng hình Người bước nhẹ không nghe tiếng/ Mà nặng lòng yêu biết mấy mươi. Tưởng tượng như Huế đã giăng bắt hồn thơ Huy Cận, và đến lượt mình, thi sĩ lại giăng bắt Huế một thời:
Hôm nay ta nấp, thơ giăng lưới
Bẫy tháng năm về bắt tuổi thơ

(Gió lạnh chiều đông)
Chế Lan Viên trong Bước đầu của tôi đã tự phân tích những gì làm nên hồn thơ và tài thơ của mình, trong đó có những yếu tố ngoài văn chương, xa văn chương. Như ta biết từ những tháp Chăm sừng sững “bí mật”, “lẻ loi” của thành xưa, những cửa nhà mái lá, cửa bàn khoa Bình Định, đến cái vòng quay kiên trì triền miên của các xe nước Quảng Ngãi”... Rồi cả những trò đổ giàn tỉ thí của các võ sĩ An Thái, An Vinh đầy tinh thần thượng võ. Huy Cận có thể nói như Chế Lan Viên “nhớ biết bao người, bao cảnh, bao sự việc đã giúp mình nên người nên văn” ở Huế.

Không thể không nhắc tới yếu tố ngôn ngữ. Huy Cận yêu mê say tiếng mẹ đẻ và xúc cảm sâu xa với giọng điệu quê hương. Tiếng Huế mà Huy Cận từng nhiều lần ca ngợi, đã góp phần tạo nên cảm hứng thi ca và văn hóa nồng nàn nơi Huy Cận. Đây là cảm giác hồn nhiên mà sâu sắc “Lần đầu tiên tiếp xúc với tiếng Huế, với giọng Huế, tôi có cảm giác lâng lâng, êm ái mà lại thắm thiết. Về sau, sống ở Huế mười năm trong cái tuổi lớn lên, từ 10 đến 20 tuổi (1929 - 1939) tôi càng cảm nhận và thấu hiểu cái giọng Huế nhẹ nhàng mà ấm sâu, thân tình và ân tình, cái giọng dường như lướt trên mặt nước, mà lại sâu thẳm trong lòng sông”. Sau này, Huy Cận có hẳn một bài thơ cho bạn gái Huế, ca ngợi chủ yếu là cái đẹp của giọng Huế: Giọng em vang vọng trời quê Huế/ Nhẹ thoảng trong veo mà xốn xang/ Nồng cháy như mồi thông núi Ngự/ Giọng em nửa thực, nửa mơ màng. Khi phân tích cái hay của nhạc điệu trong thơ Tố Hữu, cũng tương tự như ở Huy Cận, không thể bỏ qua tiếng nói, giọng hò, câu ca xứ Huế. Như vậy đó, tiếng Huế đã trở thành một âm sắc trong giọng điệu thơ Huy Cận, nó làm nên nét tâm hồn cùng với nét phong cách nghệ thuật Huy Cận.

Từ rung động thơ, từ cảm hứng văn chương dẫn tới cảm quan văn hóa Huy Cận. Đó cũng là sự mở rộng tự nhiên của một hồn thơ đa cảm. Huy Cận đồng thời cũng được tắm mình trong một không gian cố đô, được hít thở không khí văn hóa Huế và đương nhiên hấp thụ được những tinh hoa ấy (“vật thể hoặc phi vật thể”) một tiếng chuông chùa, một ngôi cổ tự, lăng miếu xưa hay một giọng hò xôn xao sóng nước lẫn sóng lòng để tất cả trở thành một nỗi niềm “bảng lảng” “vấn vương” một đời thơ.

HUẾ - VƯỜN ƯƠM CỦA TÌNH ĐỜI VÀ KHÁT VỌNG TỰ DO
Tiếp xúc với sách - trực tiếp và thường xuyên là từ tủ sách gia đình của ông cậu, của thư viện nhà trường - và của học đường, Huy Cận như được mở ra trong đầu óc bao thế giới mới lạ. Đó là cái thế giới trần gian gián tiếp qua bao khung cảnh, bao xứ sở, bao tháng năm... Tuy nhiên, cũng từ sách là bao vấn đề, bao nghĩa lý được đặt ra từ đó.
Hoàn cảnh nhà trường cũ có nét trong trắng, thanh tao đầm ấm nhưng cũng có khía cạnh khắc nghiệt của nó. Kỷ luật, quy chế gò bó cũng là một thứ kiềm chế. Ngoài mặt tích cực còn có mặt trái là cố ý đóng khuôn con người vào giáo điều chết cứng. Và trong cái xã hội thu nhỏ ấy, xã hội nằm trong xã hội lớn nô lệ, học sinh chỉ được phép cúi đầu. Tiếng mẹ đẻ trở thành một ngoại ngữ. Đó là một sỉ nhục lớn đối với lương tri còn non dại. Cậu học sinh Huy Cận cùng những bạn yêu tiếng Việt đặt ra loại “thẻ chó” (một miếng gỗ đẽo hình cái thẻ mà chó phải đeo để cảnh sát tiện kiểm soát). Kẻ phạm tội là người nào bị bắt quả tang nói tiếng Tây ngoài giờ học trong trường (trước giờ vào lớp, giờ ra chơi), đến lúc tan học phải mang thẻ ấy (tức nhận thẻ để lại “giao” cho người khác phạm tội). Một “trò chơi” rất trí tuệ, rất ý thức và luật chơi rất sắt đá. Đó là một kiểu phản ứng với thái độ nô lệ, Huy Cận đã kể lại điều này hồi đi học ở Huế với một tâm sự - tấm lòng cũng là ý thức: “Chúng tôi yêu quốc văn với tấm lòng người con thương mẹ, yêu thương người mẹ đẻ bị rẻ rúng, bị xem thường”. Tạp chí văn học Bước đầu được “xuất bản” nửa công khai, nửa bí mật, ra hàng tuần là một quyển vở đẹp chép tay những bài văn, bài thơ tự sáng tác nhằm trau dồi và bảo vệ tiếng Việt. Đó là biểu hiện lòng yêu nước hồn nhiên ban đầu.

Vẫn là qua sách nhưng đã có những bước đi mới hơn qua bao nhiêu chân trời mới. Hiệu sách Hương Giang của Hải Triều với nhiều sách báo văn học cổ kim, đông tây nhất là văn học tiến bộ cách mạng, đã cung cấp cho Huy Cận hiểu biết phong phú hơn về xã hội và cuộc đời, góp phần nung nấu thêm tình yêu thơ văn, yêu đời và những nỗi niềm với đất nước.
Cái Phố Đông Ba của tôi ngày bé (thơ) và Xóm Mang Cá (văn) giúp Huy Cận nhìn thấy những cảnh đời buồn tủi của những người nghèo và số phận bất hạnh, trớ trêu, tội nghiệp của những người “me Tây”. Nguồn vui thấp thoáng qua giọng đàn, câu hát cũng như tắt lịm trong đau khổ. Lòng cảm thương những cảnh tình ấy sẽ nhóm lên đốm lửa nhân bản trong thơ Huy Cận.
Huy Cận đã làm những bài thơ đầu tay thấm đậm tình đời, tình người mà tình buồn, tình đau là âm hưởng chủ đạo. Tất cả đã bắt nguồn từ nơi ấy, từ thời ấy. Năm 1938, bài thơ Chiều xưa được đăng trên Ngày nay, khi Huy Cận còn ngồi trên ghế nhà trường, ban tú tài - Sau đó 50 bài thơ được tích góp lại vào Lửa thiêng, tập thơ đầu tay của Huy Cận xuất bản năm 1940, khi ra Hà Nội tiếp tục cuộc đời sinh viên. Năm sau, 1941, nhà thơ đi vào hoạt động bí mật.


Con đường đi đến cách mạng của Huy Cận không phải là ngẫu nhiên. Nhà thơ đã đến với ánh sáng từ những đêm đen buồn tủi, từ những nỗi đau đời. Chàng Huy Cận “hay sầu” nhưng biết yêu nước, biết ý thức về dân tộc có truyền thống quật cường. Hành động dấn thân trên đường cách mạng sau này có thể tìm thấy từ bước đi can đảm, vững chãi trong hoạt động yêu nước từ trường Quốc học kể cả hành động dám đương đầu thách thức trong cuộc tham gia biểu tình đón Gô - đa đại diện của Mặt trận Bình dân Pháp đến mức bị cắt học bổng và suýt bị đuổi học. Huy Cận đã chứng tỏ là con người mong muốn dân chủ và khát vọng tự do, những yếu tố tiên quyết làm nên cốt cách một trí thức cách mạng.

Huế là nơi “hòa điệu” các quang cảnh, hoàn cảnh: cảnh sắc (thiên nhiên), cảnh tượng (sự việc, sự kiện đời sống) và cảnh tình (tình người, tình đời). Huế là nơi “hòa điệu” ý tưởng và thực tại, ước mơ và hiện thực cũng là thách thức và hành động.
Huế là cả một mảng đời, mảng hồn máu thịt Huy Cận. Huế là vùng thẩm mỹ đặc sắc cũng là một vùng quê sáng tạo nghệ thuật say mê của Huy Cận.
Huế vấn vương một đời ân tình với Huy Cận là thế!

       Thành phố Hồ Chí Minh, 04/2007
Đ.T.H

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THIỆN ĐẠONếu như Viện Hàn lâm Thụy Điển, đầu tháng mười năm ngoái, rốt cuộc đã trao giải Nobel 2010 cho nhà văn Pêru Mario Vargas Llosa hụt biết bao nhiêu lần trước đó(1), thì nay, Viện không còn có thể vớt vát được nữa.

  • PHONG LÊ Trở ngược lại buổi đầu của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, ta đều thấy lực lượng viết của văn học “vô sản - cách mạng” - như tên gọi ở giai đoạn hình thành của nó, cơ bản được cấu tạo từ hai nguồn.

  • Lời người dịch: Nhà thơ Slam Lisa Martinovic đồng ý cho chúng tôi chuyển dịch bài viết ngắn này, khởi đầu giới thiệu với bạn đọc một phong trào thơ trình diễn Mỹ. Đây là một phong trào thơ được nhà thơ Marc Smith sáng lập tại Chicago.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNMấy tháng trước ngày cơn đại sóng thần - grand tsunami - vỡ trào quét vào vùng biển Ấn Độ vào năm 2004, tàn phá vùng duyên hải của 12 nước ven biển và giết hại 230 nghìn mạng sống, người ta chú ý đến hiện tượng thiên di của các loài động vật.

  • NGUYỄN QUÂNLà một người vẽ mà lại yêu thơ, khi đọc liên tưởng của tôi trước hết là liên tưởng của con mắt. Cái chúng ta quen gọi là hình ảnh, hình tượng thơ … với tôi trước hết là cái có thể nhìn thấy trong đầu, khi đọc thơ.

  • LÊ QUANG THÁIVăn khảo luận ít khi viết năm Mão như văn nói thông thường, chỉ vì chưa định rõ năm nào trong các năm: Ất Mão, Đinh Mão, Kỷ Mão, Tân Mão, Quý Mão. Cho nên, không thể dịch ra tiếng Anh: “Year of the cat” một cách vô tư lự được. Viết quảng cáo lớn chữ “Xuân Tân Mão, 2011” mà lại dịch một cách tùy tiện như trên hẳn là chưa ổn.

  • NGUYỄN DƯ…Bốn cột lang, nha cắm để chồng/ Ả thì đánh cái, ả còn ngong/ Tế hậu thổ khom khom cật,/ Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng/ Tám bức quần hồng bay phới phới,/ Hai hàng chân ngọc đứng song song./ Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,/ Cột nhổ đem về để lỗ không.                                 (Cây đánh đu, Hồng Đức quốc âm thi tập)…

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGTôi mới đọc Xuân Quỳnh gần đây: với tôi, thơ chị ở quá xa. Nhưng càng đọc càng gần lại. Vì chị thường nói về thời gian: Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế/ Chỉ em là đã khác với em xưa

  • LƯƠNG ANMiên Thẩm là một nhà thơ hoàng tộc có tiếng giữa thế kỷ 19. Qua thơ văn ông, chúng ta gặp một con người, tuy bị giai cấp xuất thân hạn chế rất nhiều, song vẫn biểu hiện một ý thức thương dân và một tinh thần lo lắng cho vận mệnh đất nước vốn không phải phổ biến trong tầng lớp nhà nho - trí thức phong kiến lúc bấy giờ.

  • PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

  • L.T.S: Bài viết của Trần Đình Sử về đóng góp của thơ Tố Hữu trong việc phát triển thể tài thơ chính trị và khuynh hướng sử thi trong biểu hiện không phải không có nhiều chỗ phải bàn cãi. Tuy nhiên tạp chí vẫn coi đây là một cách tiếp cận mới để khám phá nguồn thơ phong phú của một trong những nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Xin giới thiệu bài tiểu luận này để bạn đọc cùng suy nghĩ trao đổi.

  • ĐÔNG HÀVăn chương bắt nguồn từ cuộc sống. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng vậy, mỗi trang viết của anh là một sự khởi nguyên rất chân thật. Không thiên về lối miêu tả nhưng bằng cặp mắt tinh tế sắc sảo của mình, Hoàng Phủ đã “nói” về cuộc sống từ những tinh chất của thiên nhiên và con người Huế đọng lại dưới ngòi bút của anh.

  • VÊ-RA CU-TÊ-SƠ-CHI-CÔ-VAVê-ra Cu-tê-sơ-chi-cô-va là tiến sĩ ngữ văn, giáo sư nghiên cứu ở Học viện Gorki về văn học thế giới thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô.

  • NGUYỄN HOÀN Nhạc Trịnh Công Sơn lâu nay đã “chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả bên ngoài biên giới nữa” (Văn Cao).

  • PHAN NGỌC1- Trong việc nghiên cứu Truyện Kiều, xu hướng xưa nay là đưa ra những nhận xét căn cứ vào cảm thụ thẩm mỹ của mình. Những nhận xét ấy thường là rất tinh tế, hấp dẫn. Nhưng vì quan điểm khảo sát là chỉ phân tích những cảm nghĩ của mình căn cứ đơn thuần vào Truyện Kiều, không áp dụng những thao tác làm việc của khoa học hiện đại, cho nên không tránh khỏi hai nhược điểm:

  • ĐẶNG TIẾNMèo là thành phần của tạo vật, không hệ thuộc loài người, không phải là sở hữu địa phương. Nói Mèo Huế là chuyện vui ngày Tết. Đất Huế, người Huế, tiếng Huế có bản sắc, biết đâu mèo Huế chẳng thừa hưởng ít nhiều phẩm chất của thổ ngơi và gia chủ?

  • TRIỀU NGUYÊNCó nhiều cách phân loại câu đối, thường gặp là ba cách: dựa vào số tiếng và lối đặt câu, dựa vào mục đích sử dụng, và dựa vào phương thức, đặc điểm nghệ thuật. Dựa vào số tiếng và lối đặt câu, câu đối được chia làm ba loại: câu tiểu đối, câu đối thơ, và câu đối phú. Bài viết ngắn này chỉ trình bày một số câu đối thuộc loại câu tiểu đối.

  • KHÁNH PHƯƠNGNăm 2010 khép lại một thập kỷ văn học mang theo những kỳ vọng hơi bị… “lãng mạn”, về biến chuyển và tác phẩm lớn. Nhiều giải thưởng của nhiều cuộc thi kéo dài một vài năm đã có chủ, các giải thưởng thường niên cũng đã… thường như giải thưởng, nhà văn và bạn đọc thân thiết hồ hởi mãn nguyện tái ngộ nhau trên những đầu sách in ra đều đặn… và người thực sự quan tâm đến khía cạnh nghề nghiệp trong đời sống văn chương lại tự hỏi, những sự kiện đang được hoạt náo kia có mang theo trong nó thông tin gì đích thực về thể trạng nghề viết hay không? Nếu có, thì nó là hiện trạng gì? Nếu ngược lại, thì phải tìm và biết những thông tin căn bản ấy ở đâu?

  • MIÊN DIVẫn biết, định nghĩa cái đẹp cũng giống như lấy rổ rá... múc nước. Vì phải qui chiếu từ nhiều yếu tố: góc nhìn, văn hóa, thị hiếu, vùng miền, phong tục... Tiểu luận be bé này xin liều mạng đi tìm cái chung cho tất cả những góc qui chiếu đó.

  • INRASARA1. Điểm lại mười căn bệnh phê bình hôm nay