Âm nhạc dân gian xứ Huế trong đời sống hiện nay

14:59 14/06/2023

DƯƠNG BÍCH HÀ

Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.

Ảnh: tư liệu

Vì vậy, ÂNDG xứ Huế - dân ca Huế không những trực tiếp chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý, lịch sử của riêng Huế, mà còn bị chi phối bởi điều kiện lịch sử của dân tộc Việt, cho nên, nguồn gốc, sự hình thành và phát triển của ÂNDG xứ Huế cũng nằm trong quy luật ấy.

Huế, trên một thế kỷ là kinh đô, là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước (1788 - 1945), từng là thủ phủ của chúa Nguyễn từ năm 1636, nơi hội tụ nhân tài khắp mọi miền đất nước, và cũng là nơi giao thoa của các nền văn hóa khác nhau trải qua các thời kỳ phát triển của lịch sử xứ Thuận Hóa. ÂNDG xứ Huế khá đa dạng, trong đó dân ca lại càng phong phú về thể loại như Hò, Vè, Đồng dao, Hát ru, Lý… mà thể loại nào cũng ít nhiều chiếm vị trí hàng đầu, và không chỉ bao gồm những nội dung phản ánh sinh hoạt của nhân dân lao động, mà cả của giới Nho sĩ nữa.

Thật ra, trong một ý nghĩa nào đó, lịch sử phát triển của ÂNDG xứ Huế không thật trùng hợp hoàn toàn với sự hình thành của mảnh đất Thừa Thiên Huế; nghĩa là không chỉ hình thành khi vùng Thuận Hóa sáp nhập vào Đại Việt, tính từ thế kỷ XIV (1306), khi quốc vương Chăm là Chế Mân dâng hai châu Ô - Lý làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, mà đã bắt nguồn từ trong quá trình mở rộng bờ cõi của các triều đại Đinh, Lê, Lý… nếu không muốn đẩy lùi lại sớm hơn nữa, đến thời mà Đại Nam Nhất Thống Chí ghi Thừa Thiên “Xưa là đất Việt Thường thị”.

Chúng tôi muốn đưa ra giả thuyết: Có thể đã có sự giao lưu, tiếp nhận và tự dung hợp của người Việt trên mảnh đất này từ xa hơn, và những điệu hát dân gian cũng được biến thái đi từ xa hơn, trước khi có Thuận Hóa này. Nhưng dù sớm hay muộn thì nguồn gốc xa xôi nhất của nó cũng là sự tiếp tục phát triển truyền thống âm nhạc của dân tộc theo chiều dài lịch sử đất nước từ Bắc vào Nam, từ xa xưa tới nay - tuy có sự khu biệt về tính địa phương nhưng vẫn không xa với nguồn gốc của nó.

Lịch sử Huế thuộc Đại Việt cách đây chưa đầy 700 năm, nhưng không có nghĩa lịch sử phát triển của ÂNDG đồng nhất với mốc 1306. Bởi thế, Huế mới tạo dựng được một bản sắc văn hóa đậm sâu là thế.

Theo quan điểm trên thì ÂNDG xứ Huế là hệ quả của sự đan kết của hai nhân tố chủ yếu là Việt - Chăm. Nhân tố Việt là nhân tố Đông Sơn buổi đầu gắn liền với ÂNDG cội nguồn của dân tộc, biểu hiện bằng sự “có mặt” của các thể loại dân ca, mà trong đó, yếu tố “giao duyên” được “chuyển tiếp và phát triển” một cách mạnh mẽ hơn hết, kể cả đối với thể hát lao động như Hò cũng biến thái thành Hò giao duyên đối đáp, tâm tình, đặc biệt là sự biến thái phát triển mang tính chất lượng: Sự ra đời của một thể loại mới đặc trưng, đó là thể Lý.

Âm nhạc Chăm cũng được biểu hiện trong ÂNDG xứ Huế, với đặc tính truyền miệng, qua thời gian, các điệu hát dân gian của Chăm cổ đã bị mai một. ÂNDG, nhất là dân ca, sự hình thành, phát triển của nó bao giờ cũng bị chi phối bởi ngữ âm và tiếng nói. Hệ tiếng Huế với từ tố Chăm đã được các nhà ngôn ngữ học xác định, thì ÂNDG, dân ca Huế mang dấu vết rất rõ đặc tính của giọng nói Huế, không thể không nhiễm sâu yếu tố Chăm. Yếu tố Chăm thâm nhập trong dân ca xứ Huế không phải bằng tính chất giao lưu bình thường, mà là sự dung hợp, hòa trộn; nói một cách khác, đây cũng là ngọn nguồn, cội rễ thứ hai hình thành nên đặc trưng trong dòng ÂNDG xa xưa và lan tỏa trở lại với ngọn nguồn thứ nhất. Yếu tố văn hóa Việt của Thuận Hóa xưa đã hòa vào văn hóa Chăm, đến khi văn hóa Việt bổ sung thêm những nét mới thì đã hình thành nơi đây một sắc thái mới, hệ quả của sự giao hòa Chăm - Việt, và trên cơ sở một hệ tiếng nói mới - hệ tiếng Huế. Âm nhạc đã đồng hành biến thái - hình thành, tạo nên một màu sắc đặc trưng, khu biệt. Sự giao thoa của hai nhân tố văn hóa chủ yếu đó đã đọng lại những dấu vết đậm nhạt khác nhau, mà chừng mực nào đó đã bảo tồn trong ÂNDG, trong dân ca xứ Huế.

Ca hát, nhất là ca hát dân gian thuộc vùng nào đều được hình thành trên cơ sở phong tục tập quán sinh hoạt và đặc trưng ngôn ngữ của địa phương ấy. Bởi vì ca hát dân gian là hình thức bộc bạch tình cảm, nỗi niềm của con người, cho nên, chỉ bằng ngôn ngữ, giọng điệu của chính mình mới thể hiện được chân thực những tâm tư ấy. Dân ca Huế rõ ràng có quan hệ khăng khít với giọng nói “cạn” và “hẹp” của Huế. So với dân ca các vùng xuôi khác của người Việt, đặc trưng giọng nói Huế đã để lại dấu vết rất rõ ràng trong dân ca, và chính điều đó mới tạo ra bản sắc riêng cho ÂNDG, dân ca Huế, cũng như âm nhạc xứ Huế nói chung.

Được sản sinh ra trên vùng đất thiên nhiên có nhiều nét đặc thù, vì vậy dân ca xứ Huế đem đến cho bức tranh toàn cảnh của dân ca Việt Nam những nét riêng biệt. Các thể loại của dân ca Huế mang sắc thái địa phương rõ nét, không chỉ bao gồm những nội dung phản ánh sinh hoạt của nhân dân lao động mà cả giới Nho sĩ, quan lại; vì vậy có đặc điểm riêng là không chỉ mang tính chất dân gian mà còn gần với tính chất “văn nghệ chính thống”.

ÂNDG - dân ca Huế là phiên bản chân thực của tâm hồn, tư tưởng, con người xứ Huế được vận động qua không gian và thời gian, được sinh ra, được nuôi dưỡng trên một vùng đất giàu chất thơ, giàu truyền thống văn hóa, lại được tiếp nhận ảnh hưởng trực tiếp của nền văn chương nghệ thuật bác học kinh đô Phú Xuân. Có thể vì vậy mà trong âm nhạc cổ truyền Huế, cái ranh giới giữa dân gian và bác học thật lờ mờ, khó phân định. Ở dân gian thì đã bao hàm cái tao nhã của bác học, ở chuyên nghiệp thì vẫn thắm đậm cái bình dị của dân gian. PGS Vũ Ngọc Khánh đã từng nhận xét: “Có một cái gì đó ở xứ Huế mà hòa hợp được cả không khí cung đình, dân dã, cả bác học lẫn bình dân, thật tinh vi và độc đáo. Khía cạnh đặc biệt này không phải chỉ thấy trong âm nhạc, trong diễn xướng mà ở nhiều thể folklore nữa”.

Ngoài những sắc thái riêng có tính địa phương, dân ca Huế vẫn mang những đặc tính chung của dân ca Việt Nam: Vẫn là tiếng nói của tình cảm, yêu thương, nghĩa tình. Nó đề cập nhiều đến tình duyên đôi lứa, tình yêu quê hương, tinh thần đấu tranh ngoan cường với giặc ngoại xâm, với cái xấu; Là sự căm phẫn trước mọi điều bất công, ngang trái… những đau khổ ở đời… và còn là kho tàng kinh nghiệm, tri thức về cuộc sống xã hội; Là tâm tư, tình cảm, quan điểm đạo đức, là bức tranh sinh động phản ánh trung thực đời sống vật chất và tinh thần của người dân xứ Huế.

ÂNDG - dân ca Huế đã góp phần làm phong phú thêm nền ÂNDG Việt Nam bởi màu sắc, tính chất đặc trưng cũng như sự hoàn chỉnh của từng thể loại. Dân ca Huế chiếm một vị trí xứng đáng về mặt giá trị nội dung nghệ thuật, đồng thời có một vai trò đặc biệt trong mối giao thoa giữa dòng dân gian và chính thống Huế cũng như với các vùng dân ca khác.

Với những giá trị đặc sắc như vậy, trong cuộc sống hiện nay, với nhiều luồng âm nhạc thế giới vào Việt Nam, liệu ÂNDG xứ Huế vẫn đứng vững, hay mai một theo thời gian?

Đây là một vấn đề “đau đầu”, nhức nhối không chỉ của riêng xứ Huế, mà là của cả dân tộc. Hiện tượng vốn cổ mất dần theo thời gian, theo các nghệ nhân về với tổ tiên trở nên phổ biến, trong khi các cơ quan, ban ngành chức năng vẫn còn xem nhẹ vấn đề này - cho dù chủ trương, nghị quyết của Nhà nước đưa ra là “giữ gìn và phát huy vốn cổ...”, nhưng giữ và phát huy như thế nào thì vẫn còn bỏ ngỏ. Chỉ còn các nghệ nhân yêu nghề cố chống chọi, giữ gìn, nhưng liệu họ có đủ sức, đủ thời gian để chống chọi, giữ gìn mãi được không khi mà tuổi đã cao, khi mà không mấy ai quan tâm đến họ - chủ thể sáng tạo, khi mà họ không có chế độ gì để tồn tại, để giữ nghề? Khi mà giới trẻ hiện nay vẫn mải miết lao theo luồng âm nhạc thời thượng mà quên đi giá trị cốt lõi của cha ông mình?

Cũng như các nhà nghiên cứu ÂNDG có tâm với nghề, tôi cũng đam mê, lăn lộn với nghề không ít, lặn lội đi tìm vốn cổ, giờ tuổi đã cao, tuy đam mê vẫn còn, nhưng thực sự ít nhiều bất lực, bởi trong cuộc sống bề bộn nhiều nỗi lo, với đồng lương ít ỏi, làm sao đủ sức khi vẫn kiểu “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng” mãi được - trong khi không hề có một sự hỗ trợ nào về kinh tế, về tinh thần? Thậm chí khi cố gắng giữ gìn, bảo vệ vốn cổ, còn bị nhiều người cười chê là hâm, là bảo thủ?

Phải thẳng thắn nói rõ vấn đề này: Nếu không “hâm”, không “bảo thủ”, không cương quyết thì vốn cổ sẽ không còn là nó nữa, mà là biến dạng theo số đông muốn “cách tân”, muốn phá vỡ truyền thống theo cách nhìn của họ! Quan điểm của tôi: Muốn giữ gìn, phát huy được vốn cổ đúng nghĩa, thì đầu tiên, chúng ta phải biết tôn trọng, quan tâm đến các nghệ nhân - tức là chúng ta biết tôn trọng cha ông, tôn trọng nền văn hóa truyền thống đã tồn tại hàng ngàn năm theo lịch sử dựng nước và giữ nước. Tiếp theo, chúng ta phải nghiêm túc nhìn nhận chuẩn về vốn cổ, không để vốn cổ bị nhào nặn, bị lai căng theo sở thích của trào lưu (than ôi, những người không thực sự quan tâm đến vốn cổ, thích phá vỡ truyền thống lại là những người không có nghề, hoặc có nghề nửa vời). Cần có kế hoạch cụ thể để huy động các nhà nghiên cứu tổng điền dã, gặp gỡ các nghệ nhân để thu thập lại các tư liệu giấy và tư liệu sống qua các hình thức: thu âm, thu hình, chụp ảnh... sau đó, tập trung xử lý tư liệu như nghiên cứu lịch sử, văn hóa, nguồn gốc, nội dung, môi trường, phương thức diễn xướng... đồng thời ký âm các bài bản đã thu được, bắt tay vào nghiên cứu chuyên sâu, rồi bảo quản nó cả trong máy móc cũng như truyền bá khắp nơi theo hình thức mời các nghệ nhân truyền nghề, truyền khẩu cho lớp trẻ để thế hệ tiếp theo nắm, hiểu và tiếp tục giữ gìn, phát huy. Tổ chức các câu lạc bộ, đưa ÂNDG vào giới thiệu trong trường học qua các buổi sinh hoạt ngoại khóa, tổ chức các cuộc thi đàn hát dân ca định kỳ...

Điều làm nhức nhối, đau lòng đối với những nhà nghiên cứu thực sự có nghề, thực sự tâm huyết, đó là hiện tượng nhiều “nhà nghiên cứu” xuất hiện, già có, trẻ có... lẽ ra là đáng mừng cho công việc bảo tồn vốn cổ, nhưng nhìn kỹ lại, chúng ta có được những gì? Thực tế đã cho chúng ta thấy những công trình chắp vá, sao chép (gọi là đạo văn), ôm đồm, luôn luôn có những câu quen thuộc, kiểu: “Theo giáo sư A, B, C... đã nói, đã kết luận...” mà không hề xem lại, không hề hồ nghi là những đánh giá, nhận xét đó liệu đã xác đáng chưa, đã chính xác chưa? Tôi không thể chủ quan mà nói rằng điều đó đúng hay sai, nhưng qua thực tế, tôi thấy rằng đa số các nhà nghiên cứu, các giáo sư, tiến sĩ khi nghiên cứu về ÂNDG hầu như đều ngồi trong phòng lạnh, giở tư liệu để xem, để đánh giá, kết luận, chứ không đi thực tế điền dã để nắm bắt đúng vấn đề. Nếu có ai đó có đi điền dã, cũng chỉ trên cơ sở cưỡi ngựa xem hoa, nhưng nhờ những chức danh, hoặc có quyền lực, mà những nhìn nhận phiến diện của họ đều được đánh giá là đúng, là chuẩn... Qua đa số công trình nghiên cứu ÂNDG từ những năm 2000 đến nay đã nói lên điều gì đối với những nhà nghiên cứu đó: Nó nói lên rằng họ phần nhiều lao theo hư danh, theo thời thượng, theo giá trị đồng tiền, nhận làm những công trình chủ yếu vì kinh tế, chứ thực ra họ rất mơ hồ về điều họ đang nghiên cứu, và cũng chưa đưa ra được các biện pháp có tính khả thi! Trong chuyên môn, bằng cấp không nói lên được điều gì, mặc dù tôi vẫn nhất trí là có ăn có học cũng tốt hơn, nhưng phải có tri thức, tâm huyết, đam mê, có nghề thực sự, còn nếu không dù có ra nhiều công trình nghiên cứu, có nhiều nhà nghiên cứu xuất hiện... tất cả vẫn sẽ khó tạo được đột phá, mới mẻ.

Có thể còn nhiều cách thức khác nữa để bảo tồn, nhưng với những phương hướng như vậy cũng đủ làm chúng ta yên tâm và hy vọng vào sự sống còn của vốn cổ!

D.B.H
(TCSH411/05-2023)

____________________

Tài liệu tham khảo:

1. Dương Viết Á (1996). Theo dòng âm thanh cái đẹp sải cánh. Xí nghiệp in Thủy Lợi, Hà Nội.
2. Dương Văn An (1961). Ô Châu Cận Lục. Bùi Lương dịch. Nxb. Văn hóa Á Châu, Sài Gòn.
3. Đào Duy Anh (8/1938). Việt Nam văn hóa sử cương. Nxb. Bốn phương, Viện Khoa giáo. Hiên tân biên tái bản.
4. Tôn Thất Bình (1997). Dân ca Bình Trị Thiên. Nxb. Thuận Hóa.
5. Lê Văn Chưởng (2004). Dân ca Việt Nam - những thành tố của chỉnh thể nguyên hợp. Nxb. Khoa học xã hội.
6. Lê Quý Đôn (1982). Phủ biên tạp lục. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Dương Bích Hà (1997). Lý Huế. Viện Âm nhạc, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.
8. Lê Văn Hảo (1984). Huế giữa chúng ta. Nxb. Thuận Hóa, Huế.
9. Nguyễn Đăng Hòe - Huy Trân (1974). Bản in Ronéo. Bước đầu tìm hiểu âm nhạc dân gian Việt Nam. Hội VNDG Việt Nam, Hà Nội.
10. Trần Trọng Kim (1971). Việt Nam sử lược. Tập I, II. Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
11. Thái Văn Kiểm (1960). Cố đô Huế. Nhà in Bình Minh, Sài Gòn (theo bản in lại của Nxb. Đà Nẵng, 1994).
12. Trần Văn Khê (2004). Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam. Nxb. Trẻ.
13. Trần Văn Khê (2000). Âm nhạc dân tộc. Nxb. Trẻ.
14. Thụy Loan (1993). Lược sử âm nhạc Việt Nam (giáo trình). Nhạc viện Hà Nội - Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.
15. Thụy Loan (2007). Âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Nxb. Đại học Sư phạm.
16. Phạm Phúc Minh (1994). Tìm hiểu dân ca Việt Nam. Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.
17. Tú Ngọc (1994). Dân ca Người Việt. Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.
18. Trần Việt Ngữ - Thành Duy (1967). Dân ca Bình Trị Thiên. Nxb. Văn học, Hà Nội.
19. Tô Vũ (1996). Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam. Nxb. Âm nhạc, Hà Nội.
20. Nguyễn Viêm (1996). Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền. Viện Âm nhạc, Hà Nội.
21. Nguyễn Viêm (1995). Truyền thống âm nhạc Việt Nam. Viện Âm nhạc, Hà Nội.
22. Hoàng Yến (1998). Những người bạn cố đô Huế. B.A.V.H. Tập V, VI. Nxb. Thuận Hóa, Huế.
23. Sách Tiếng Huế - Người Huế và văn hóa Huế (2005). Nxb. Văn học.
24. Địa chí Thừa Thiên Huế (2020), Phần Nghệ thuật diễn xướng, Chương XI. Nxb. Thuận Hóa.
- Một số Tạp chí trung ương và địa phương như: Tạp chí Âm nhạc, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, Tạp chí Văn hóa dân gian, Tạp chí Sông Hương, Tạp chí Huế Xưa và Nay.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang