NGUYỄN KHẮC PHÊ
Đợt rét đậm cuối năm không ngăn được cây lá quanh vườn nhú mầm non và hai cây mít bên cổng lại nẩy những “dái” mít được bao bọc bởi lớp nhụy vàng mềm mại, trông dễ thương và ngon lành, đến mức muốn… cắn một miếng như hồi nhỏ ở quê. Bên đường Lê Lợi dọc sông Hương, những tờ lịch năm 2014 khoe màu rực rỡ, tươi rói đã lại giăng giăng khắp các cửa hàng…
Nhà văn Nguyễn Khắc Phê thời chiến đấu ở Trường Sơn
Vậy là Xuân Giáp Ngọ đã gõ cửa. Quả tim bỗng rộn nhịp như… tiếng vó ngựa đang tới gần. Năm 2014 này, tôi tròn… 75 tuổi xuân, độ tuổi thường “hồi cố”, nghĩ về những chặng đường đã qua trong cuộc đời mình.
*
…Không mấy ai biết trước được con đường mình sẽ đi trong cuộc đời. Bây giờ, khi đã qua tuổi “cổ lai hy”, mỗi lúc nhìn lại cuộc đời ba phần tư thế kỷ của mình, tôi vẫn cứ ngỡ ngàng, không hiểu do số phận định trước hay nhờ “biến cố 1954” mà một chàng trai cục mịch và ít học nhất so với các anh trai trong gia đình như tôi lại có thể trở thành nhà văn.
Nói đến “nơi bắt đầu”, tôi chợt nhớ đến cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đào Vũ: “Nơi bắt đầu con đường mòn ấy…”. Và năm 2014 này vừa đúng dịp kỷ niệm 55 năm mở đường Trường Sơn; với tôi, đây cũng là dịp “kỷ niệm” 55 năm bài ký đầu tiên được đăng trên báo “Văn Học” (tiền thân báo “Văn Nghệ” hiện nay) với nhan đề “Những người đi tiên phong”, viết về những người bạn bỏ dở khóa học, vào Vĩnh Linh cùng những người lính đầu tiên của “Đoàn 559” khai mở tuyến đường qua Làng Ho… Hơn nữa, 15 năm tuổi trẻ trong cuộc đời tôi gắn bó với những con đường, những nhịp cầu và đặc biệt cuốn sách đầu tay của tôi - tập ký “Vì sự sống con đường” (Nxb. Thanh niên, 1968) chính là viết về cuộc chiến đấu “nơi bắt đầu con đường mòn ấy”, nên đã có nhà phê bình khi viết về những tác phẩm của tôi đã đặt nhan đề bài là “Từ con đường đến những trang viết.”
Đó là cách nhìn nhà văn theo “đề tài” - một cách nhìn có thể gọi là phiến diện, nhưng một thời lại khá phổ biến - chứ số phận cũng như “duyên nghiệp” của một con người thì nơi bắt đầu đáng kể trước hết phải là bào thai của mẹ. Gần đây, tôi mới biết trong kinh Phật đã nêu vấn đề “thai giáo” - tức là sự giáo dưỡng đứa con phải được chú trọng từ lúc nó còn ở trong bào thai. Đã đành, mảnh đất với hồn thiêng sông núi nuôi nấng, chở che mình những năm ấu thơ cũng là “nơi bắt đầu” hệ trọng của đời người.
Tôi sinh ngày 26 tháng 4 năm 1939, tuổi con mèo (Kỷ Mão) tại Huế, tuy quê quán là làng Gôi Vỵ, xã Sơn Hòa, Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tôi là đứa con thứ 6 của mẹ, là con trai út; sau tôi còn 3 đứa em gái. Mẹ sinh tôi lúc mới 36 tuổi, độ tuổi viên mãn của một người đàn bà. Thời kỳ đó, mẹ tôi đã xây dựng lại khu nhà - vườn ở quê, sau trận hỏa thiêu kinh hoàng thời “Xô Viết”, nhưng khó mà biết được mẹ tôi đã “đậu thai”, cho tôi hình hài đầu tiên của một thai nhi từ đâu. Thời kỳ đó, bố tôi đương chức Phủ Doãn Thừa Thiên (Phủ Doãn là tên gọi chức tỉnh trưởng một tỉnh được chọn là kinh đô một nước), tuy có ảnh chụp gia đình trước dinh Phủ Doãn, nhưng hình như thời gian mẹ tôi ở quê nhiều hơn là đến ở với bố tôi những nơi cụ làm quan. Ví như hồi “Xô Viết” thì rõ ràng là chỉ mẹ tôi “chịu trận” ở quê, sau đó, bố tôi mới từ Huế về thăm nhà…
Như vậy, tuy không biết được “các cụ” gặp nhau ở Huế hay Hương Sơn lúc tạo nên hình tướng đầu tiên thằng con trai mà “9 tháng 10 ngày” sau mang cái tên Phê không lấy gì làm đẹp, nhưng có điều chắc là hơn 9 tháng trong bụng mẹ, tôi đã được lên tàu hỏa “du lịch” vô Huế - những chuyến tàu hồi ấy còn chia hạng 1,2,3 và được kéo bởi đầu máy chạy bằng than, vì thế nên mới gọi là “tàu hỏa” hay “xe lửa” - và những ngày ở Huế chắc cũng được du ngoạn trên sông Hương hay những cảnh đẹp như Đồi Vọng Cảnh, Điện Hòn Chén, vịnh Lăng Cô hay Bạch Mã…, dù gia đình tôi nổi tiếng cần kiệm (nhà quan Phủ Doãn mà “sáng dậy ăn cháo với mấy quả cà, có khi có chút cá kho… kêu cá kho mặn quá thì mẹ bảo “Mặn thì ăn ít cá, ăn nhiều cơm cháo vào!” - chính là anh tôi, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết như thế trong cuốn sách nổi tiếng “Bàn về đạo Nho”.) Bây giờ, sống ở Huế, mỗi khi vào ra cửa Thượng Tứ hay đi qua hồ Tịnh Tâm, chợt tưởng lại hồi mình còn bé bằng… củ khoai lang nằm trong tử cung của mẹ, đã được thăm thú núi Ngự sông Hương thơ mộng, không biết đó có phải là “cơ duyên” may mắn của mình? Phải, đó hẳn là một may mắn và hạnh phúc. Cứ giả như hồi đó, bố tôi bị cử vào làm quan ở Quảng Ngãi hay Bình Thuận, hoặc ra Quảng Trị… chẳng hạn, thì dù đất quê nào cũng có anh hùng và thi nhân, nhưng hẳn là trong thời kỳ “thai giáo”, thiếu những tháng ngày được “ăn” cá tôm nước lợ phá Tam Giang, được “hít thở” trong bầu không gian văn hóa đặc sắc của Huế thì có lẽ khi tôi ra đời sẽ có ít nhiều đổi khác…
Sau những ngày ở Huế như thế, mẹ lại mang tôi lên tàu hỏa đi ra Vinh, rồi ngược sông Ngàn Phố trên các chuyến đò dọc về quê nhà Hương Sơn. Thời đó, chưa có hoặc rất ít xe chở khách từ Vinh theo quốc lộ số 8 lên Hương Sơn, nên những chuyến đò dọc là phương tiện tối ưu, vừa tốn ít tiền, vừa là dịp ngao du sơn thủy rất thú vị. Trong lòng chiếc đò rộng khoảng vài mét, những chiếc chiếu trải ngang trên sạp bằng gỗ láng bóng, già trẻ, giàu nghèo, cô buôn chuyến, bác nông phu, trai thanh, gái lịch… “sát cánh” bên nhau như một gia đình lớn. Mo cơm mở ra cùng ăn, hộp trầu, quả cau chia sẻ; râm ran đủ thứ chuyện trên đời. Thời đó, đò chưa gắn máy, không có tiếng máy nổ ình ình nhói tai, chuyện vui buồn cũng chia sẻ với bạn đồng hành như mo cơm, điếu thuốc. Những chuyến đò dọc dù lịch trình dài hàng chục cây số, đều di chuyển bằng chèo khi xuôi dòng, may thuận gió thì có thêm cánh buồm nâu giúp sức; lúc ngược nước thì nhờ những cây sào chống - thường dùng cây mạy, còn gọi là “cán giáo”, một loại tre thân đặc, nhỏ, rất dẻo dai, khi đò nặng, nước rặc, đầu sào tì nặng, lún sâu vào những chiếc vai trần bóng nhãy mồ hôi khiến cây sào uốn cong như cánh cung khổng lồ mà không gãy. Gặp chỗ sông cạn thì có khi cả hành khách cũng cởi áo, vận quần cộc, nhảy xuống nước hò dô góp sức đẩy đò lên. Vất vả và có phần nhếch nhác nữa, nhưng mà vui. Thỏa sức vốc nước sông trong mát rửa ráy, mặc dù cũng có anh chàng liều tranh thủ “tè” lúc quần cộc ướt át sẽ không bị lộ tẩy; nếu có chị em nào hăng hái cùng nhảy xuống thì càng vui, mắt tròn mắt dẹt ngó liếc, rồi rì rầm bình phẩm “to-nhỏ” với “trắng-đen”… Qua chỗ cạn là hô nhau bám thành đò trèo lên. Vào lúc chiều nhạt nắng thì trai trẻ lên mui thuyền - một mái vòm êm ái được đan bằng cật tre và ép lên lớp lá kè (còn gọi là lá cọ) - vừa ngắm cảnh đôi bờ như một cuốn phim quay chậm, vừa hong khô quần áo. Đêm đến, hết ngắm trăng thì xuống lòng đò, nam nữ phân chia hai phía, nằm trên sạp kiểu như cá xếp trong thúng. Khi chiếc đèn “Hoa Kỳ” hết dầu, hành khách hết chuyện để bàn luận là có thể nghe rõ tiếng sóng vỗ mạn đò lóc bóc cùng tiếng mái chèo kẽo kẹt và tiếng những cây sào rần rật cọ vào sườn đò hai bên. Cái “vòm” không gian bình yên và ấm cúng ấy thỉnh thoảng cũng bị “quấy rối” bởi một ai đó nói “mớ” trong mơ hay con trẻ thức giấc khóc nhè đòi vú mẹ; thậm chí có kẻ còn cố ý… gác chân, lật tay lấn sang phía khác giới khiến đối phương giật thột kêu lên như bị kẻ trộm móc túi. Cho dù vậy thì kết cục vẫn là những tràng cười xoe xóe, rinh rích, hì hì đủ kiểu đến là vui!....
Tất nhiên, cảnh tượng ở trên mãi về sau tôi mới thấy tận mắt, nhưng chắc là nằm trong bào thai của mẹ, nhiều lần xuôi ngược dọc sông Phố và có thể cả trên sông Giăng quê hương mẹ ở thượng nguồn sông Lam nữa, tôi cũng “cảm” được sự bồng bềnh nổi trôi thích thú trên những chiếc đò dọc một thời đã xa cũng như hương vị thơm ngon của bát chè đậu ván, chè sen Tịnh Tâm khi được cùng bố mẹ đi nghe ca Huế trên đò sông Hương ngày xưa…
Có phải đó là cái “duyên tiền định”, là đợt tập dượt đầu tiên, chuẩn bị cho 20 năm sau, chàng kỹ thuật trẻ Nguyễn Khắc Phê sống cuộc đời di động suốt 15 năm, qua những công trường cầu đường từ Hà Đông quê lụa đến biên giới Lạng Sơn, từ miền Tây Nghệ An heo hút đến đất lửa Quảng Bình và cuối đời được “đóng đô” ở Huế, cũng phải chuyển nhà đến 4 lượt, được giữ chức vụ rất… sang trọng là Tổng Biên tập Tạp chí Sông Hương, nhưng chỉ “đứng” được trong 9 tháng! Ngay cả những tháng ngày mẹ tôi “đóng đô” tại quê nhà bình yên thì tôi cũng năng động “ngược xuôi” khác hẳn bạn bè cùng lứa, ngay từ trong bụng mẹ. Có điều đặc biệt ấy vì tôi biết, một người siêng năng, tháo vát hết mực như mẹ tôi, thì dù bụng mang dạ chửa, ngày ngày bà vẫn trèo thang lên dàn hái trầu - nhà tôi ở quê có khu vườn trồng cây trầu không đẹp nổi tiếng, với dàn nứa kết hàng hàng ngang dọc làm choái cho trầu leo. Có phải vì thế mà tôi trở thành một đứa bé nghịch ngợm, thường bị người lớn mắng là “lớp tớp”; những cây nhãn, cây mít trong vườn đều bị tôi “chinh phục”, khi mẹ tôi nuôi hươu, tôi không ngại những cây duối cao, trèo lên chặt cành lá về cho hươu ăn, hai lần bị rơi, may mà không chết, cũng không bị thương! (Có người bảo tôi được “bà mụ” đỡ!)
Và có phải nhờ cái “vốn”… trời cho ấy - nói đúng hơn là ân huệ của hai vùng đất Hương Sơn - Huế cùng với khí huyết bố mẹ ban cho - mà một chàng trai cục mịch có thể nói là “vô học” như tôi, dám nghĩ đến chuyện văn chương vào năm vừa tròn hai mươi tuổi?
Viết những dòng này, tôi bỗng… “hoang mang” khi nghĩ tới hàng ngàn, hàng vạn đứa trẻ… 0 tuổi trong mùa Xuân này, ngày ngày phải theo mẹ trên những con đường chật cứng xe cộ, nồng nặc mùi xăng, bụi bặm; hơn thế, do người mẹ thường xuyên phải đối diện với màn hình vi tính không ngừng “bắn” ra những tia độc hại, thì không biết cái cơ thể non nớt chỉ mới bằng… củ khoai được tiếp xúc với thế giới hiện đại sớm hơn, rồi có trở nên nhạy bén, thông minh hơn, có tránh được sự biến dạng hoặc thương tổn, có thể tạo nên những đứa trẻ “khuyết tật”, dù trông vẫn béo tốt ngon lành? Và tôi bỗng muốn thốt lên: “Ôi, cái thế giới hiện đại, nếu ta không tìm được cách chế ngự thì không chỉ “hại… điện” mà thôi!”
Vậy là lâu nay mình viết lí lịch không trung thực, hoặc là cái mẫu khai lí lịch cực kỳ chi tiết và phải khai đi khai lại không biết bao nhiêu lần trong đời cán bộ, hóa ra chưa đủ, những cái gọi là “thành phần giai cấp”, rồi ngày vào Đoàn vào Đảng, rồi tên cha - mẹ - ông - bà nội ngoại cũng những chức vụ, mức tiền lương… chưa hẳn đã là những yếu tố quan yếu để đánh giá một con người.
Trường An-Huế - Trước thềm Xuân 2014
N.K.P
(SH300/02-14)
NGUYỄN KIÊN
Tôi có anh bạn tên là Trứ, có phòng riêng ở một khu tập thể. Chúng tôi thân nhau từ hồi còn học phổ thông. Sau nhiều năm lang bạt mỗi đứa một phương, nay gặp lại, tình bạn giữa chúng tôi có phần còn thắm thiết hơn xưa.
LÊ MINH PHONG
Trong chợ, những người ăn xin vẫn lết đi theo cách thức riêng biệt của họ. Thỉnh thoảng lại có những đồng tiền lẻ rơi xuống trên những vũng nước đen sì và những người ăn xin lại tranh nhau nhặt chúng rồi xỉ vả nhau cũng bằng thứ ngôn từ riêng biệt của họ. Không biết không gian này có phải là trong ảnh hay không.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Nó đến vào buổi chiều, cuối mùa hè, khi tôi chơi thả diều trên cánh đồng gần sông với Hà và mấy đứa bạn. Tôi và Hà cùng mười tuổi, sắp vào lớp năm. Nó đến bất thần. Ngang thắt lưng.
NGÔ DIỆU HẰNG
Ngày ngày nhìn qua cửa sổ, thấy bạn bè tung tăng đến trường, những tà áo trắng bay thướt tha trên đôi bánh xe đạp xinh xinh tôi lại ngồi co rúm mình vào góc phòng.
NHỤY NGUYÊN
Cô hướng dẫn viên trẻ, giọng mềm và nhẹ, cho hay động Thiên Đường được phát hiện nhờ một người dân tộc. Từ thời điểm động được đưa vào khai thác, những hang động khác giảm hẳn lượng du khách. Người ta chỉ muốn đến thiên đường.
ĐÔNG HÀ
Dịu nói nàng sẽ đi.
Tôi ậm ừ qua chuyện. Tôi nhủ Dịu rời nơi này cả chục bận, lần này thứ bao nhiêu, tôi không buồn đếm, nhưng biết chắc nàng chưa đủ can đảm bước đi, dẫu chỉ là bước thứ nhất. Chặp đâm ra chỉ biết ậm ừ.
THÁI NGỌC SAN
Người đàn ông ôm cái cặp da to tướng bước nhanh vào phòng khách vận nhà ga. Cái cặp to gần bằng nửa người ông ta so với chiều cao. Thế nhưng mọi động tác của ông đều nhanh nhẹn, linh hoạt đến láu lỉnh. Có lẽ đó là đặc tính bẩm sinh của những người lùn.
VŨ MẠNH LẬP
Cây ngô cao vồng lên giữa bãi, lạ lắm.
Già A-nông thầm đặt cho nó cái tên: cây ngô chướng.
VÕ MẠNH LẬP
Truyện ký
Ông nội tôi nghèo của, nhưng giàu con. Ông có những hai mươi hai người con, tài sản của những ba bà. Tất cả theo nghiệp con trâu đi trước cái cày theo sau. May mắn thầy tôi rẽ ngang theo con đường học chữ Hán, chí thú tìm thầy học bạn, mở hiệu bán thuốc bắc, bắt mạch, đoán bệnh.
PHẠM PHƯƠNG
Đỉnh núi dựng đứng, lởm chởm cây bụi và những vỉa rêu xõa xượi dưới không gian trầm buồn sương. Buổi sớm, con chó to lớn tập tễnh bước trên đường.
HOÀNG NHẬT TUYỀN
- Nhắn chú ấy chiều nay vào ngay. Vào ngay đây! Tôi chẳng sống được mấy ngày nữa đâu thím Đóa à!
NGUYỄN THỊ KIM THOA
Em có cái tên mộc mạc như củ khoai củ sắn, như trái thơm trái cà ở nhiều vùng quê thôn dã: Lê Thị Sim.
NGUYỄN LAM THỦY
Người Hung gọi chị ta là “thiếu phụ quàng khăn đỏ”. Nhưng chị ta chẳng bao giờ quàng khăn đỏ, bởi tên chị ta là Piroska. (Piroska tiếng Hung khi còn bé gọi một cách trìu mến có nghĩa là “cô bé quàng khăn đỏ”, khi lớn lên đi lấy chồng thì gọi “thiếu phụ quàng khăn đỏ”).
DẠ NGÂN
Tờ giấy màu vàng rơm. Đã khá xa cái thời giấy hoàn toàn tái chế, thỉnh thoảng ngòi viết vấp phải một ít cặn bột cứng sảng. Thùy vẫn nhớ độ thô vàng vàng của tờ giấy, như nhớ một kỷ niệm buồn, nhớ mùi vị ngậm ngùi từ ký ức xộc ra. Tờ thư là dấu hiệu của nghèo khó nhưng nó có cái uy của sự áp đặt. Thô và vàng. Không chỉ thư mời, nó có hơi hướm giấy triệu tập hơn.
LÊ MINH KHUÊ
Xe vừa dừng thì từ phía ghế lái phụ có tiếng đập cửa gấp gáp. Vĩnh chồm dậy, mắt nhắm mắt mở. Nhưng không. Có phải báo động máy bay đâu? Vĩnh quay sang tôi nhe răng cười và mở cửa.
ĐINH DUY TƯ
Tin ông Khòa từ chức bay ra như một ổ mối cánh lúc trời mưa. Người này nói với người kia, truyền vào tai nhau lượng thông tin nóng hổi nhất. Họ đánh giá, phân tích và bình phẩm, kèm theo những kết luận theo cách nhìn nhận của mình.
PHẠM DŨNG
Thay xong bộ đồ ngủ, định đi nằm thì Diễm Trinh thấy trên bàn có một tờ giấy đánh máy.
ĐỖ HÀN
Bân trằn trọc mãi không ngủ được. Thế là lại mất toi con hổ mang nữa. Bữa trước vợ Bân cho rắn ăn, quên không đóng cửa chuồng. Một cặp hổ mang và một con hổ chúa bò ra ngoài. Dân làng đi xem văn công về, nhìn thấy một cặp rắn, họ kêu ầm lên. Bố con Bân phải vất vả lắm mới túm được đôi hổ mang. Con chúa chuồn đi mất.
LÝ THỊ MINH CHÂU
Con đường len lỏi qua những cánh rừng nối các buôn bản vùng cao lại với nhau giống như con rắn khổng lồ trên lưng có vệt vảy trắng.
PHÙNG PHƯƠNG QUÝ
Cuối buổi họp, “Thừa tướng” còn cho Trưởng ban Văn-Xã lên có đôi lời phát biểu. Thanh than thầm: “Thôi rồi Lượm ơi!”. Thằng lùn này nó nói dai còn hơn trâu đái.