NGUYỄN TUYẾT LỘC
Những tháng ngày đẹp nhất và có ý nghĩa nhất với tôi, không phải thời thơ ấu chỉ nghe và thấy cảnh chết chóc lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang cao trào khi theo ba là bác sĩ chuyển nhiệm sở từ Huế ra Đồng Hới, Quảng Bình.
Tác giả Nguyễn Tuyết Lộc
Cũng không hẳn một thời tuổi dại chỉ biết nô đùa vui chơi ở 23 Âm Hồn cạnh Tòa Thượng Thẩm - Thành Nội Huế. Cũng không phải thời gian sống trong ngôi biệt thự xinh xắn 6 & 8 Lê Đình Dương sát bờ hữu ngạn sông Hương cùng Ba Mẹ kính yêu cưng chiều con gái như công chúa út. Chính ở đây, trong căn hộ hơn một trăm mét vuông, rất ấm cúng, đầy tình thương yêu của gia đình anh chị tôi - tiến sĩ vật lý Nguyễn Văn Thạch - tiến sĩ hóa Đào Ngọc Bích - thuộc cư xá Giáo sư Đại học, số 2 Lê Lợi sát cầu Ga mà tôi nhận được phúc lợi lớn nhất của đời mình là việc được tiếp xúc học hỏi một thế hệ trí thức tài năng, nhiệt huyết, vào một độ tuổi còn rất trẻ.
Khi vợ chồng anh chị Nguyễn Văn Thạch từ Pháp về được mời giảng dạy Đại học Khoa học Huế cũng là lúc Cư Xá Giáo Sư vừa hoàn tất. Mỗi building gồm 3 tầng. Đến ở đầu tiên là gia đình anh Thạch, tầng ba. Lần lượt anh Đỗ Long Vân giáo sư văn chương Pháp cùng vợ và hai con, một trai, một gái, tầng trệt. Người trẻ tuổi nhất ở tầng giữa là anh Trần Văn Toàn, giáo sư khoa Triết. Building gắn kết đối diện cửa nhà anh Thạch là căn hộ dành cho một vị giáo sư thỉnh giảng từ Pháp, ông Pierre Đỗ Đình. Ông lớn tuổi nhất trong các vị ở đây, là người lịch duyệt, quý phái từ cách ăn mặc rất “chic” đến cách cư xử đằm thắm từ tốn với mọi người chung quanh. Du học nước ngoài từ nhỏ nên ông nói tiếng Việt không thông thạo lắm. Ông không vợ con, chỉ nhận một cháu trai về nuôi, khoảng bằng tuổi Tịnh, em trai út của tôi, độ mười hay mười hai tuổi. Ông nói bố mất sớm, mẹ nuôi ăn học, gần nửa đời người ở nước ngoài không được gần mẹ, ông muốn thời gian còn lại dành cho mẹ. Bà cụ già yếu nằm một chỗ tuy có người giúp việc nhưng chính tay ông Đỗ Đình đút cơm cháo cho cụ. Ai cũng biết lòng hiếu thảo của ông đối với mẹ nên họ quý ông lắm. Ông về Việt Nam vừa giảng dạy bộ môn Pháp văn vừa để chăm sóc mẹ già nhưng thật không may sau nầy ông lại là người phải ra đi trước.
Tầng giữa đối diện nha anh Toàn dành cho anh Phan Văn Thiết dạy luật, có vợ người Pháp trẻ, xinh đẹp và hai con. Lúc mới bước chân vào cư xá trông cô rạng rỡ, yêu kiều ai cũng thích nhìn. Chiều nào dạy xong anh Thiết cũng dành thời gian dẫn vợ con đi dạo dọc theo đường Lê Lợi. Hai vợ chồng nắm tay nhau, hai đứa trẻ tung tăng trông rất hạnh phúc. Nhưng về sau anh Thiết bỗng dở chứng bạo hành với vợ. Cô vợ người Pháp chịu đựng những cơn nóng giận của chồng không bao giờ to tiếng cãi lại, trông cô ngày càng gầy xơ xác. Cho đến khi anh Thiết đột ngột nhập viện, mọi người mới biết anh bị ung thư phổi. Người ta đoán rằng những cơn đau đớn hành hạ thân xác biến anh Thiết từ một giáo sư lịch sự, thương yêu vợ con thành một người vũ phu. Cô chăm sóc chồng cho đến khi anh Thiết mất mới đưa hai con về lại Pháp. Hình ảnh đẹp đẽ rỡ ràng của vợ chồng anh Thiết với đoạn kết bi thảm đã ám ảnh tôi nhiều năm.
Đối diện nhà anh Đỗ Long Vân ở tầng trệt là gia đình ông Lê Hữu Mục. Gia đình nầy cũng lắm chuyện thú vị. Ông Lê Hữu Mục dạy văn, sáng tác nhạc, bản: “Chèo đi bơi đi” được ông sáng tác năm 1938, lúc tôi chưa có mặt trên cõi đời nầy:
Chèo đi bơi đi
Nước non đang chờ ta
Bơi đi vững lòng tay lái
Và hát vang lên cho lòng hăng hái…
Hay “Con sáo đá” dịch từ bài “Alouette”, rồi bài “Con voi”… lúc học lớp năm ở Đồng Hới, cô giáo Hà Thúc Lãng vẫn thường dạy chúng tôi hát, giờ mới biết những bài ca đó là của ông Lê Hữu Mục. Tôi thích nhất bài “Hẹn một ngày về” mà chị Hà Thanh thường hát trên đài phát thanh Huế:
Về đây trong hoa lá hỡi cánh chim giang hồ
Về đây trong hương sắc thắm tươi say mơ
Huế lờ lững dòng Hương
Năm tháng còn vương lời ai mong chờ
Huế trong tiếng dịu êm
Cô lái bên sông còn vang lời thơ…
Nhân vật thứ ba, nguyên nhân của sự cố đối với gia đình này chính là giáo sư dạy triết Nguyễn Văn Trung. Vụ vợ cũ của giáo sư Lê Hữu Mục không phải là xì căng đan duy nhất của giáo sư Nguyễn Văn Trung. Loại chuyện nầy rất nhiều người ở Huế biết rõ, nghe nói đấy cũng là nguyên nhân việc phải chuyển vào Sài Gòn đột ngột của ông.
Nhưng chỉ gắn tên giáo sư Nguyễn Văn Trung với các vụ tình ái là không công bằng. Không thiếu những giới thiệu công phu - dưới dạng sách hay bài báo - về triết học Tây phương và riêng các tư trào triết học hiện đại như chủ nghĩa hiện sinh và hiện tượng học vào thời đó của các nhà nghiên cứu Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Lê Thành Trị… Ở dạng sách giáo khoa cho học sinh đệ nhất hay triết học nhập môn cho sinh viên ban triết thì có linh mục Cao Văn Luận, Trần Văn Hiếu Minh. Nhưng phải thừa nhận giáo sư Nguyễn Văn Trung có tiếng nói và tạo được tên tuổi riêng của mình. Có lẽ trái tim còn “nặng nợ trần gian” của vị giáo sư trẻ tiếp nhận chủ nghĩa hiện sinh kiểu Jean Paul Sartre - người mà ông chịu ảnh hưởng sâu sắc cả về ngôn ngữ văn chương lẫn nội dung triết học, nếu không nói là mô phỏng thần tượng của mình một cách khá lộ liễu - thuận lợi cho ông hơn các vị giáo sư triết đồng nghiệp chủ yếu là những linh mục nghiêm túc, khả kính - và gần gũi với trình độ amateur thích giọng bay bướm khoa đại của tuổi trẻ. Tên tuổi của ông qua các công trình biên khảo như “Nhận định”, “Lược khảo văn học”, “Ca tụng thân xác”… được biết rộng rãi từ Sài Gòn ra Huế. Theo thiển ý của tôi, trong bất cứ lĩnh vực nào như y tế, triết học, tôn giáo bao giờ cũng có dạng hoạt động cộng đồng - Y tế cộng đồng, Tôn giáo cộng đồng - và có nên gọi thêm “Triết học cộng đồng” kiểu giáo sư Nguyễn Văn Trung: dễ lan tỏa, tiếp cận trình độ quần chúng, bởi nói một cách nghiêm túc - trừ những bạn đọc có năng khiếu và công phu hơn người - thì hiểu biết triết học của đại bộ phận học sinh, sinh viên ngày đó ở mức độ quần chúng và hơn tí ti. Một điểm son của vị giáo sư đa tình nầy là chủ biên (thời đó gọi là chủ trương biên tập) Tạp chí Đại Học đem lại uy tín cho Viện Đại học Huế, nếu không nói là giới Đại học Miền Nam nói chung.
Nhân tiện tôi muốn nhắc sơ qua vài sự kiện và hoạt động trong giới giáo sư thuộc Viện Đại học Huế hồi đó vốn đã tạo được ít nhiều ảnh hưởng, trước hết đối với địa phương. Có lẽ cao trào của các hoạt động nầy, nếu không kể đến các sự kiện trước 63, là vào những năm 64, 65 rộn ràng với tờ Lập Trường, tòa soạn nằm gần trường Providence (trường Thiên Hựu), gần cầu Kho Rèn với những tên tuổi như bác sĩ Lê Khắc Quyến, giáo sư Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần… Tờ báo Lập Trường công khai chỉ trích chính quyền Sài Gòn một cách nặng nề và rất được lòng quần chúng, bán đắt như tôm tươi. Tôi nhớ mục được bà con khoái nhất là mục “Chén thuốc đắng” (không rõ có phải từ ý nghĩa của câu tục ngữ “Thuốc đắng đã tật” hay lấy hình ảnh ly thuốc đắng mà triết gia Hy Lạp Socrate đã can đảm uống cạn).
Quay lại địa chỉ 2 Lê Lợi, ở một building khác, có căn hộ được phân cho Tổng trưởng Bộ Giáo dục - giáo sư Bùi Tường Huân cùng vợ là chị Phương Thảo, em ca sĩ Hà Thanh. Ông Tổng trưởng ở Sài Gòn thỉnh thoảng về Huế thăm vợ, cho đến khi chị Phương Thảo sinh đứa con đầu lòng mới chuyển vào Sài Gòn với ông.
Hai vợ chồng giáo sư bác sĩ người Đức Hort Gunther Kranick ở cùng building với ông Bùi Tường Huân, tiếp đến là bác sĩ Erich Wulff. Một khu cư xá mới cũng nằm trong khuôn viên 2 Lê Lợi vừa cất xong thì gia đình thư ký Viện Đại Học Huế, giáo sư Lê Khắc Phò dạy môn sử địa về ở. Năm tôi học đệ nhất thầy dạy vài tiết rồi nghỉ luôn, có lẽ do sức khỏe kém. Khu cư xá như rạng rỡ xinh tươi hẳn lên khi thêm một đóa hồng mảnh khảnh, tha thướt, yêu kiều xuất hiện: chị Lê Liên vợ của thầy. Chị dạy sử địa ở trường Quốc Học. Tôi chưa bao giờ là học trò của chị, nhưng tôi “mê” chị, mê nụ cười thật tươi của chị. Mỗi khi chị cười khuôn mặt chị trở thành đóa hồng ngời sáng. Và tôi mang theo mình nụ cười “không phải ai cũng sở hữu được” đó cho đến bây giờ.
Chiều nào anh Thạch, anh Toàn đi dạy về cũng tụ tập ở hiên nhà anh Đỗ Long Vân trò chuyện, những hôm mưa gió thì chuyển vào trong. Bộ ba nầy rất hợp ý nhau, không khí cởi mở thân mật. Đại học Huế như được thổi một làn gió mới với các vị giáo sư trẻ, trí thức, năng động. Người ăn mặc đàng hoàng lịch sự nhất là anh Trần Văn Toàn, áo quần sạch sẽ, tươm tất, nút cài kín cổ. Lúc mới về cư xá, tôi cứ nghĩ anh là linh mục. Hai người ăn mặc lôi thôi nhất là anh Thạch và anh Vân. Hình như họ chẳng để ý đến bề ngoài.
Anh Thạch, anh Nguyễn Văn Hai có vài điểm giống nhau, nhưng hai tính cách khác nhau nhiều. Điểm tương đồng rõ nhất là cả hai anh đều có ý chí, quyết tâm ham học, học đến nơi đến chốn.
Những người biết anh Nguyễn Văn Hai là Giám đốc Nha học chánh Cao nguyên Trung nguyên Trung phần, khoa trưởng khoa học, sau nầy là Viện Phó viện Đại học Huế với tính cách nhiệt huyết mà nghiêm khắc, nóng nảy, dễ mất lòng người, nhưng ít ai biết anh Hai (cùng với anh Hòa em kế anh Hai về sau tập kết ra Bắc) đã tham gia Vệ Quốc Quân đi kháng chiến chống thực dân Pháp trước khi về thành. Sau nầy tôi mới được biết nhiều ý kiến ngược nhau ở Huế về anh Hai tôi khá phức tạp. Là quan hệ anh em nhưng tuổi tác lại rất xa, vả lại tôi là người có thiên hướng mơ mộng văn chương, triết học, tôi không để tâm đến chính trị. Tôi có một nhận xét riêng có thể là chủ quan, mối quan tâm bậc nhất của anh Hai tôi là tình yêu với khoa học, tri thức, và hoài bảo đem khoa học tri thức đóng góp cho đất nước, đặc biệt thông qua giáo dục bồi dưỡng cho các thế hệ tri thức trẻ. Tôi còn nhớ, dù là một viên chức cao cấp của thời đó, khi ông Ngô Đình Cẩn cho người gọi lên Phủ Cam để góp ý về giáo dục, răn đe xa gần các giáo sư sinh viên tiến bộ, vừa về đến nhà, anh Hai tỏ ra bực dọc, nói:
- Lão Cẩn dốt nát, không biết chi về giáo dục mà bày đặt góp ý về khoa học giáo dục!
Anh làm mẹ tôi phải hoảng hốt, dặn:
- Tai vách mạch rừng, con phải giữ mồm giữ miệng…
Và rất có thể tâm nguyện nầy giải thích vì sao khi ra nước ngoài, nhiều nhóm tổ chức Việt kiều mời anh Hai chủ trì đứng tên nhiều hoạt động phong trào, nhưng anh chối phắt, một phần vì anh bận dạy tại Đại học Kentucky, phần khác anh muốn toàn tâm toàn ý nghiên cứu Phật pháp. Anh chính là Hồng Dương, tác giả các tác phẩm “Luận giải Trung luận: Tánh khởi và duyên khởi” (Nxb. Tôn giáo - 2003) “Nhân quả đồng thời” (Nguyệt san Phật học 2007), “Tìm hiểu Trung luận: Nhận thức và Không tánh” và anh được thừa nhận là một nhà nghiên cứu Phật học có uy tín. Viết đến đây tôi bỗng nhớ có lần đang nghe tôi tâm sự về gia đình, anh Nguyễn Thanh Văn bạn tôi bỗng nhận xét khá bất ngờ: “Những thế hệ trong họ tộc Tuyết Lộc đều có “gien” tôn giáo”. Và tôi có dịp ngẫm nghĩ lại, lờ mờ nhận ra ý kiến khá hữu lý nầy. Ngoài hoạt động hoằng pháp, xây dựng chùa chiền của mẹ, việc chuyển đạo làm Thầy Sáu của anh Thạch trong lúc đang hoạt động khoa học, việc anh Hai cuối đời toàn tâm toàn ý nghiên cứu Phật pháp như tôi đã nói ở trên là việc tôi còn một người chị đầu xuất gia lúc 7 tuổi tại chùa Sư Nữ Huế, pháp danh Thích Nữ Vi Diệu và trong khi tôi thấy mình có huynh hướng ma giáo, thì con gái tôi dù lập gia đình với người nước ngoài, sống nước ngoài nhưng dùng hầu hết thời gian để làm việc thiện, xây dựng các cơ sở tôn giáo, chuyên tâm học tập Phật pháp.
Từ khi có anh chị Thạch về, ba mẹ tôi thường du lịch đó đây, đôi khi cả tháng. Anh Hai tôi lại tiếp tục đi học nước ngoài, giao hai chị em tôi cho anh chị Thạch. Vào năm cuối cùng của trung học đệ nhị cấp tôi đang mùa ôn thi tú tài toàn phần.
Bàn ăn chỉ có bốn người anh chị Thạch, tôi và Tịnh. Cứ đúng 7 giờ tối là giờ cơm của gia đình, mọi việc trong ngày đều được đem ra kể lể tại đây, từ chuyện học hành của hai chị em tôi, đến việc dạy dỗ của anh chị ở đại học. Tôi là người hay bỏ bữa ăn tối vì học thêm ở Hội Việt Mỹ, hoặc tập kịch. Tôi phụ trách vai công chúa Tây Hạ cùng với Trần Quang Miễn học đệ tam, một học sinh rất cá tính đóng thật xuất sắc vai Thành Cát Tư Hãn trong vở kịch “Thành Cát Tư Hãn” của Vũ Khắc Khoan. Không những lo cho vai diễn của mình mà còn lo trang phục, đạo cụ, phông màn cho vở kịch. Tôi phải liên hệ với bà o họ của tôi là chủ đoàn hát bội Đồng Xuân Lâu ở gần cuối đường Phan Bội Châu. Thầy giám học Văn Đình Hy nói đây là vở kịch chính dành cho quan khách quan trọng trong thành phố xem nhân dịp lễ phát thưởng học sinh giỏi cuối năm. Mỗi lớp từ đệ tam trở lên chỉ có 3 hoặc 4 học sinh được phần thưởng mới có vé vào. Lớp tôi đệ nhất C1 (Pháp văn là sinh ngữ chính, Anh văn sinh ngữ phụ) chỉ có Thân Trọng Sơn, Trần Công Tín đều là bạn thân của tôi. Tôi còn nhớ khi lãnh phần thưởng do Viện trưởng Viện Đại học Huế - Linh mục Cao Văn Luận trao, tôi vẫn còn mặc trang phục công Chúa Tây Hạ. Cha Luận nói:
- Con gắng thi đậu, Viện đã lo giấy tờ cho con đi học ở Pháp rồi đó.
Điều may mắn và thú vị nhất với tôi vào thời gian ở với gia đình anh chị Thạch ba năm, từ đệ tam đến đệ nhất là nhiều giáo sư nổi tiếng về đây, hội tụ tại khu Cư xá Đại học nầy mang theo nhiều quan điểm và phong cách phóng khoáng đã giúp tôi một cái nhìn khác, một cách sống khác. Dù biết lắng nghe điều phải trái, nhưng tôi không xem trọng dư luận “tủn mủn” hà khắc kiểu “cố đô”. Tư tưởng phóng khoáng đó đến với tôi từ khi tôi học môn triết. Và tủ sách của anh Trần Văn Toàn hằng ngày bồi dưỡng nuôi nấng ý chí tâm hồn tôi. Tôi thích cái “điên” của Phạm Công Thiện, bởi anh ta có những điểm abnormal giống tôi, vào thời điểm đó Phạm Công Thiện đã nổi tiếng như cồn. Tôi đặc biệt phục họ Phạm về khả năng ngoại ngữ. Ngoại ngữ là chìa khóa mở mọi cánh cửa tri thức. Một số thầy cô giáo dạy triết bấy giờ chỉ mở sách giáo khoa của Linh mục Cao Văn Luận hay của GS. Nguyễn Văn Trung ra đọc cho chúng tôi chép, không cung cấp kiến thức mở rộng cho học sinh, ngay chính họ cũng không nhiều vốn ngoại ngữ để làm bàn đạp mở ra tri thức thế giới cho mình và học trò.
Được gần gũi và trò chuyện với mấy anh tôi rất thích. Họ xuất thân từ các trường nổi tiếng ở châu Âu. Phải nói là tôi rất may mắn được các anh là bậc thầy chỉ dẫn chu đáo. Sau nầy lớn lên, học và dạy, dạy và học tôi ảnh hưởng phong cách cũng như phương pháp học hành giảng dạy của mấy anh rất nhiều. Anh Đỗ Long Vân dạy văn chương, nhưng khi đề cập đến triết, là anh tranh cãi quyết liệt, gây một bầu không khí rất trí thức. Thích nhất là tủ sách triết của anh Toàn. Chiều tối đợi anh dạy về, tôi xin phép vào lục tìm, ghi chép. Thích thì ghi chép chứ không dám mượn. Sách của anh Toàn đọc không hết, cần đến đâu hỏi đáp đến đó. Phần lớn tủ sách của anh bằng tiếng Pháp, rất hiếm tiếng Anh. Vốn ngoại ngữ Pháp văn của tôi không thể nào đọc hiểu các sách về triết học nên anh Toàn cũng mất rất nhiều thời gian giảng giải cho tôi. Anh Toàn tìm từ rất cẩn thận, thật chính xác để dịch cho tôi hiểu từng ý. Đã vào khu rừng sách thì sự hiểu biết của mình như hạt cát giữa biển khơi, nó mê hoặc lạ kỳ, muốn cái đầu của mình trong chốc lát chứa hết tất cả hiểu biết của thế giới, có khi tẩu hỏa nhập ma!
Ngoài Đại học Huế anh Toàn còn dạy triết ở Sài Gòn, Đà Lạt trong thập niên 60, ở nước ngoài như Kinshasa (Congo). Anh là nhà nghiên cứu triết học và là tác giả “Tìm hiểu triết học của Karl Marx” (Nxb. Nam Sơn, Sài Gòn 1965) chính vào thời điểm mà việc đề cập chủ nghĩa Marx bị chính quyền miền Nam cấm đoán và kiểm duyệt gắt gao. “Xã hội và con người” hay “Hành trình vào triết học” dành cho lớp triết học nhập môn, trong cuốn này anh dùng từ dễ hiểu, khác hẳn với cuốn “Tìm hiểu triết học của Karl Marx” từ anh dùng sang trọng và hàn lâm. Ngoài ra còn có “Tìm hiểu về ý nghĩa của lao động và kỹ thuật”, hay “Tìm hiểu đời sống xã hội” (in tại Sài Gòn).
Năm 1967 chị Ngọc Bích đổi vào làm ở Bộ Giáo dục Sài Gòn, anh Thạch cũng vào theo, rồi cả hai vợ chồng xin chuyển về Đại học Cần Thơ, anh Thạch làm khoa trưởng khoa học ở đó. Vì thiếu giáo sư giảng dạy môn toán nên anh Thạch mời giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Ngọc về dạy. Ông Ngọc thương yêu và xem anh Thạch như em trai vậy, nên khi anh Thạch mời, ông nhận lời ngay. Từ đó ông ở lại miền Nam Việt Nam dạy Đại học Sài Gòn cho đến năm 1975. Anh Thạch nói ông Ngọc là người rất dũng cảm không sợ một áp lực nào, cả chính quyền Miền Nam Việt Nam lẫn CIA của Mỹ. Anh Thạch kể, một hôm nhân lúc Viện Đại học Sài Gòn đang họp bàn kế hoạch, ông Ngọc bỗng đứng dậy, yêu cầu các giáo sư đứng dậy dành một phút im lặng để tưởng niệm. Ông Viện trưởng bấy giờ là bác sĩ Trần Quang Đệ cũng phải đứng lên theo. Không khí thật trang nghiêm. Sau phút im lặng đó, ông Ngọc tuyên bố: “Chúng ta vừa dành một phút tưởng niệm công ơn người đã hy sinh đời mình để giành độc lập tự do cho đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Cả hội đồng viện nhìn nhau sửng sốt, tái mặt, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu và CIA biết nhưng không làm gì được ông nên lờ luôn chuyện nầy, một phần do các trường đại học ở miền Nam bấy giờ như trường Đại học Huế, Cần Thơ, Sài Gòn được hưởng quyền tự trị trở thành “bất khả xâm phạm”.
Theo anh Thạch, trong thời gian giảng dạy ông Ngọc ở tại cư xá dành cho giáo sư Đại học Sài Gòn, một ngày ăn một lần vào buổi tối và không tiếp khách. Có người nghĩ ông hoạt động bí mật cho chính quyền miền Bắc.
Cuộc sống có những sự việc và mối quan hệ ngoài tầm hiểu biết của mình. Sau năm 75 tôi mới biết giáo sư tiến sĩ Nguyễn Văn Ngọc đúng là một cán bộ hoạt động bí mật, và ông có hàm trung tướng, giữ chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Với nhiều dè dặt, tôi mạo muội nhận xét rằng có thể những ấn tượng của một thời trai trẻ với không khí Vệ Quốc Đoàn ngày nào còn dư âm trong lòng anh Hai. Và cũng có thể giữa những người con của Mẹ Việt Nam dù bão táp lịch sử xô dạt về nhiều phía, thậm chí có sự khác biệt về chỗ đứng, chính kiến giữa họ - những trí thức khoa học có đẳng cấp - cùng một tấm lòng tha thiết muốn đóng góp cho khoa học, cho tri thức, cho sự hưng thịnh Tổ quốc của mình, đã tạo ra mối quan hệ bằng hữu tương kính mà tình thân giữa tiến sĩ Nguyễn Văn Ngọc và tiến sĩ Nguyễn Văn Hai, anh tôi là một ví dụ. Ông Ngọc từng muốn bảo trợ, mời anh Hai về tiếp tục giảng dạy ở Việt Nam, nhưng anh tôi đã từ chối.
Khi anh Thạch rời Huế, anh Trần Văn Toàn, Anh Đỗ Long Vân và các giáo sư khác cũng lần lượt mỗi người đi một phương trời. Anh Thạch sang Pháp tu nghiệp năm 1972 đến 75 không về Việt Nam được, phải làm giấy tờ bảo lãnh vợ con tám năm sau mới sum họp. Bây giờ hằng ngày anh chị lo việc đạo, mỗi năm về Sài Gòn vừa thăm tôi, vừa thăm mộ phần ba mẹ kết hợp nghỉ dưỡng ở dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn ở Bãi Dâu, Vũng Tàu. Tại đây anh chị dành riêng một tháng đóng cửa phòng không tiếp ai để “vào sa mạc”, đó là những ngày đơn độc một mình cầu nguyện.
Anh Đỗ Long Vân những ngày cuối đời thật bi thảm. Khi tôi gặp anh Vân ở Sài Gòn năm 1990 - 1991, anh ở một góc nhỏ trong nhà kho lợp tôn, nóng hừng hực. Chỗ anh nằm là một ghế bố cũ kỹ đã sờn đặt sát cửa ra vào của hiên nhà. Dưới ghế bố nồi niêu soong chảo, thức ăn lâu ngày, áo quần không giặt bốc mùi khi mưa ào xuống áo quần ướt đẫm, anh cứ để nguyên thế mặc cho đến khi khô. Tóc rối bù như tổ chim, kiếng cận xộc xệch sà xuống mũi anh cũng chẳng thèm chỉnh lại, hai chân lê từng bước ; tôi có cảm giác hai chân anh không còn đỡ nỗi thân hình đã gầy giờ không còn chỗ gầy hơn được nữa. Anh có vẻ chán đời nếu không muốn nói là có dấu hiệu không được bình thường lắm. Một Đỗ Long Vân hoạt bát, đôi mắt tươi vui “tếu tếu” dưới chiếc kiếng cận dày mấy đi-ốp, một trí thức mà trước đây rất nhiệt tình, rất sôi nổi khi về Huế giảng dạy năm nao không còn nữa. Anh nói anh ly dị vợ từ sau 75. Hai đứa nhỏ một trai một gái ở với mẹ giờ đã lớn, đi làm hằng tháng gửi tiền chu cấp cho anh. Anh nhận dịch sách của Nhà xuất bản Trẻ nhưng tiền nhuận bút ít ỏi lại lâu lâu mới có một đầu sách để dịch nên không đủ đâu vào đâu.
Ít lâu sau tôi nghe tin anh mất trong chính căn nhà kho đó.
Riêng anh Toàn, tháng 9 năm 2014 tôi đang ở Singapore thì anh Nguyễn Thanh Văn ở Sài Gòn gọi điện thoại báo tin cho biết anh Toàn vừa mất ở Lille, Pháp.
Anh Đỗ Long Vân, anh Trần Văn Toàn và anh Nguyễn Văn Thạch là bộ ba gắn bó với nhau một thời, nay chỉ còn anh Thạch ở Pháp. Tuy biết rằng anh Toàn đã trên 80, sinh tử là lẽ đương nhiên, nhưng sự ra đi của một trí thức đôn hậu, khiêm cung mà tôi có may mắn tiếp cận làm tôi không khỏi bùi ngùi, xúc động. Và cùng với hình ảnh thân thương của anh Toàn là hình ảnh của một thế hệ từ bỏ đời sống đầy đủ tiện nghi ở xứ người, quay về phục vụ quê hương với tài năng và bao nhiêu tâm huyết mà không phải ai cũng có đoạn kết như ý, nay không còn mấy người, gợi lên trong lòng tôi bao nhiêu thương cảm, tiếc nuối.
Ngẫm lại tôi đã học được rất nhiều, từ việc học chữ đến việc học làm người trong những tháng ngày ở với anh chị Thạch - Bích và nắm cơ duyên có một không hai sớm tiếp xúc với những người thầy xuất sắc, “cổ điển” ở một địa chỉ và của một thời khó quên 2 Lê Lợi.
N.T.L
(SH311/01-15)
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...
PHAN VĂN LAITrong cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, Huế đã nổi lên là một chiến trường xuất sắc, được Đảng, Chính phủ tặng danh hiệu: “Tiến công nổi dậy, anh dũng kiên cường”, được Bác Hồ khen ngợi: “Bác rất vui mừng vừa qua Huế đã đánh giỏi, công tác giỏi, thu được nhiều thắng lợi to lớn” và được cả nước tự hào về Huế.