PHẠM PHÚ PHONG
Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.
PGS-TS Nguyễn Thị Thanh Xuân - Ảnh: internet
![]() |
Chị là Phó giáo sư, tiến sĩ văn học, giảng viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, là tác giả các công trình như Những trang viết, những nhịp cầu (viết chung với Huỳnh Như Phương, 1986), 25 năm, một vùng tiểu thuyết (in chung, 2002), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX [1900 - 1945] (2004), Tiếng vọng những mùa qua (2004), Văn học Nhật Bản ở Việt Nam (chủ biên, 2008), Nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học ở Nam Bộ giai đoạn 1865 - 1954 (chủ biên, 2018) và công trình tự điển tiểu sử tác giả viết bằng tiếng Anh Southeast Asian Personalities of Chinese Descent: A Biographical Dictionary (2012). Nay chị lại có thêm công trình chân dung văn học Gửi đây chút duyên tình đọc (Nxb. Đà Nẵng, 2019) viết về 18 tác giả đáng chú ý, xuyên suốt thế kỷ XX trong nền văn chương Việt. Sách dày gần 300 trang khổ lớn (15x24cm), từ việc chọn lựa nhân vật, đến cách khắc họa chân dung đều thể hiện cảm quan và tư duy khoa học chuẩn xác, nhạy bén với cái mới, giàu tính phát hiện, tâm huyết và tình cảm nặng đầy trong mối tương liên, tri ngộ với từng đối tượng. Vì vậy, dù chỉ là một cái nhìn phác thảo, nhưng đã đem lại những đường nét, màu sắc đầy ấn tượng, tạo nên dáng vẻ sừng sững và sinh động đối với từng bức chân dung.
Về việc chọn lựa “mười tám khuôn mặt văn chương Việt, trải dài trong khoảng gần một trăm năm, vắt qua hai thế kỷ (...) gắn liền với những tình huống đặc thù từ sinh hoạt nghề nghiệp của người viết, cuộc hội ngộ của các nhà văn nơi đây ngẫu nhiên và bất ngờ” [1, tr.7] như tác giả đã rào đón trong Lời mở. Tuy nói “ngẫu nhiên”, nhưng không vô tình và thực ra vẫn là sự cố tình của người viết, không chỉ xuất phát “từ sinh hoạt nghề nghiệp” mà còn từ “chút duyên tình đọc” như tiêu đề tập sách tác giả đã thừa nhận, bởi lẽ, không có tương phùng làm gì tri ngộ, không có tương liên làm gì có hạnh ngộ trong cuộc đời mênh mông biển thẳm!
Nhìn một cách thoáng rộng, và bổ dọc theo thời gian, căn cứ vào thời điểm xuất hiện, trong đó có cả về tuổi tác, ít nhất có ba thế hệ thành danh, chiếm lĩnh đời sống văn học của đất nước. Đó là thế hệ những cây bút thời danh, trưởng thành trước cách mạng như Phan Khôi, Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Bích Khê, Hồ Hữu Tường, Triều Sơn, Nguyễn Đổng Chi, Tô Hoài; rồi đến thế hệ thành danh trong thời gian đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh như Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phùng Khánh, Lê Giang và các cây bút trưởng thành sau ngày hòa bình thống nhất đất nước như Nhật Tuấn, Mang Viên Long, Lưu Quang Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Nguyễn Nhật Ánh. Tất nhiên, văn chương là một dòng chảy liền mạch, không thể phân chia một cách rạch ròi theo thời gian lịch sử, bởi lẽ, cả ba thế hệ này, luôn có sự gối đầu, so le, song hành và tiếp sức, góp phần làm đầy dần lên những vỉa tầng đời sống tinh thần và văn hóa dân tộc. Nếu bổ ngang trên bề mặt của diện mạo đời sống văn học, trong cả ba thế hệ, có những tên tuổi quen thuộc, từng xuất hiện nhiều trên văn đàn được nhiều người nhắc đến, nhưng cũng có những tên tuổi lạ lẫm, ít được người đọc chú ý và dường như trong đó có cả người mới nghe nói đến lần đầu.
Đối với những tác giả thời danh, đã có nhiều người nói đến, sức khám phá và sáng tạo của tác giả là đã tìm ra những chỗ còn bỏ ngõ, khám phá những yếu tố mới, bởi trên con đường đã chi chít những dấu chân, người viết cố tìm ra được những khoảng trống hiếm hoi để đặt bàn chân ấm nóng của mình, nắm được “cái thần” của mỗi người, tô thêm những nét chấm phá, để người đọc có thêm một góc nhìn mới có thể nhận diện rõ chân dung tinh thần của từng tác giả. Chỉ cần lướt qua các nhan đề bài viết cũng có thể nhận ra điều đó: Phan Khôi làm văn học, Thiếu Sơn nhà văn chính trực, Hoài Thanh người tri kỷ của thơ ca Việt, Nguyễn Đổng Chi viết phóng sự, Bùi Giáng bản nhiên, Trịnh Công Sơn người tình của thiên nhiên,... Với Hoài Thanh, người viết chỉ tập trung công trình quan trọng nhất của đời ông, và cũng xứng đáng xếp hàng đầu trong những công trình phê bình thơ/văn học hiện đại nước ta, là Thi nhân Việt Nam. Sự nghiệp của Hoài Thanh không chỉ là một cuốn sách, nhưng chỉ nhìn qua Thi nhân Việt Nam cũng có thể nhận ra chân dung một con người đã dốc hết tâm huyết cho thơ. Tương tự, với Nguyễn Đổng Chi, người viết bỏ qua những công trình khoa học, những sưu tầm biên soạn về Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam dày mấy nghìn trang, để nhận diện chân dung ông qua một tập phóng sự mỏng Túp lều nát, ra đời cách đây hơn ba phần tư thế kỷ. Với Thiếu Sơn, người từng có các tiểu luận Hai cái quan niệm về văn học (1935), Giữa hai cuộc cách mạng (1947), với hành trạng cuộc đời và hành nghiệp văn chương của ông, lúc nào cũng ở giữa hai phía đối đầu, là phải khẳng định sự trung thực một cách chính trực, mới là điều căn cốt tạo nên bản mệnh văn chương của ông. Với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, người mà khi còn tại thế và sau khi qua đời, đã có hàng chục cuốn sách viết về người nhạc sĩ tài hoa này, nhưng ở đây, tác giả nhận diện chân dung ông không bằng âm thanh mà bằng ngôn từ, thông qua lời thơ/ngôn ngữ ca khúc, từ góc nhìn ca từ. Với Bùi Giáng, hành trạng cuộc đời và sáng tạo nghệ thuật luôn gắn liền với bản nhiên tự tại, mang ý nghĩa triết học của sự vận động: “Ra đi và trở về, bước vào và bước ra là tinh thần của thơ ca và tư tưởng của Bùi Giáng. Ra đi với nhân loại, trở về với quê nhà. Ra đi với triết học, trở về với thơ ca. Ra đi với sách vở, trở về với nghiệm sinh. Ra đi với chữ nghĩa trở về với tâm cảm. Ra đi với nhân gian trở về với tinh thể...” [tr.165]. Hoặc nói đến Phan Khôi, ai cũng biết rằng ông có một sự nghiệp báo chí đồ sộ, nhưng xét cho cùng ông lưu danh muôn thuở là nghiệp văn. Tác giả đã phác thảo chân dung của con người tài hoa và có bút lực sung mãn này, trên cơ sở một góc nhìn xác tín làm luận cứ: “Xuyên qua tác phẩm của Phan Khôi, mà phần lớn là những bài đăng báo, tôi nhận ra rằng, Phan Khôi là một nhà văn viết báo, chứ không phải là một nhà báo viết văn. Ghi nhận ấy tựa trên mấy lẽ sau: (1) Trong khoảng 40 cầm bút, trang viết của Phan Khôi xuất hiện từng ngày trên các báo, cực kỳ phồn tạp: dung lượng dài ngắn khác nhau, nội dung bàn chuyện Đông, Tây, kim, cổ, cụ thể và trừu tượng, vậy mà qua thời gian các trang viết ấy không hề bị neo lại trong bờ ranh thời sự, nghĩa là không chóng bị tàn úa theo ngày; (2) Phan Khôi đã khơi dậy nhiều hải lưu cuộn sóng trong khúc sông văn học Việt Nam hiện đại từ thập niên ba mươi đến thập niên năm mươi của thế kỷ XX; (3) Một cái tôi nghệ sĩ đích thực đã giúp Phan Khôi đứng vững, không đánh mất mình giữa những bủa vây của thời cuộc” [tr.9-10].
Những tác giả bị lãng quên hoặc ít được nhắc đến trên diễn đàn văn học như Hồ Hữu Tường, Triều Sơn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Phùng Khánh, Mang Viên Long... trong đó có người lận đận, vất vã đi qua những khúc quanh của lịch sử dân tộc và đã có một thời gian dài, do thiên kiến của những quan niệm nằm bên ngoài văn học, họ hầu như đã bị lãng quên, không được nhắc đến trong các công trình tự điển văn học/tác giả (không chỉ trong những công trình mang tầm vóc quốc gia, mà cả trong những công trình nghiên cứu cá nhân như Các tác gia văn chương Việt Nam của Trần Mạnh Thường, Nxb. VHTT 2008). Đọc công trình này của Nguyễn Thị Thanh Xuân, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng, các tác giả này, lâu nay, tuy đây đó cũng đã từng đọc họ, nhưng không ngờ họ có một sự nghiệp văn chương đồ sộ đến như thế, hoàn toàn không thua kém bất kỳ tác giả nào có tên trong tự điển văn chương nước nhà. Chẳng hạn, ở đây ta đã gặp và khâm phục nhà văn Triều Sơn, người dường như chỉ đi ngang qua cuộc đời hơn ba mươi năm (1921 - 1954), nhưng đó là một hành trình dài, rộng với những nỗ lực, cố gắng phấn đấu không mệt mỏi đến tận cùng của kiếp nhân sinh, gắn liền với hoàn cảnh lịch sử đất nước, “tuy ngắn ngủi, nhưng đã in rõ một thời đoạn đặc biệt của trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam. Qua ông, ta thấy một cá nhân dám sống, dám suy tư, dám hành động và luôn muốn tiến về phía trước để mong mang lại điều mới, điều tốt đẹp cho cộng đồng. Hoàn cảnh gia đình (nghèo khó); nỗ lực trí tuệ (đỗ tú tài, vào học đại học bằng học bổng); nhiệt huyết hành động để đổi thay xã hội (tham gia các tổ chức); tự tin chuyển dịch qua nhiều không gian (vào Nam, qua châu Phi, qua Pháp); chủ động tìm hiểu, học hỏi và kết nối với giới làm văn hóa (ở Việt Nam, ở Pháp); hướng về đại chúng và thao thức với cuộc đời chung, nhưng hoàn toàn không dễ dãi trong cách viết... Nói chung, bản thân con người Triều Sơn là một nhân chứng sống động của một xã hội dù ngổn ngang nhưng không tù đọng, không bế tắc” [tr.137]. Chỉ nhìn ở góc độ văn học, đã đến lúc cần trả lại sự công bằng cho lịch sử, nếu lãng quên vì bất kỳ lý do gì, là tự làm nhỏ/nghèo đi những thành tựu trong di sản văn hóa dân tộc. Nguyễn Thị thanh Xuân là một trong những người đi tiên phong một cách khả tín.
Về lối viết, như trong Lời mở, tác giả có nói rằng, “bạn sẽ gặp ở đây những bài viết không chỉ khác nhau về dung lượng, mà còn khác nhau về phong cách. Có những bài như là tùy bút đọc, với cách viết hoàn toàn thoải mái, tràn đầy cảm xúc; có những bài mang tính chất nghiên cứu, đầy ắp thông tin và luận giải, chú thích: chính trong ý thức về đặc trưng của đối tượng mà tác giả chọn cách viết tương thích, trong khả năng có thể của mình” [tr.8]. Một quan niệm nghệ thuật bao giờ cũng đưa đến một thi pháp biểu hiện tương ứng. Nhìn chung, việc phác thảo chân dung của tác giả thể hiện ở nhiều góc độ rất đa dạng và năng động. Đối với những tác giả quen thuộc với độc giả, người viết trực tiếp phân tích tác phẩm để tìm ra diện mạo tinh thần. Đối với những tác giả ít được nói đến, người viết kỹ hơn, có thêm phần giới thiệu nhân thân: năm sinh, năm mất, quê quán, dòng họ gia đình, hành trạng cuộc đời: “Hồ Hữu Tường sinh ngày 8 tháng 5 năm 1910 tại làng Thường Thạnh, huyện Cái Răng, tỉnh Cần Thơ, mất ngày 26 tháng 6 năm 1980 tại Sài Gòn, là con của ông Hồ Văn Sây và bà Võ Thị Nữ, là tá điền nghèo. Ông kết hôn với bà Nguyễn Huệ Minh, sinh được chín người con, bảy người đã mất, hiện nay chỉ còn hai người con gái: Hồ Huệ Tâm, giáo sư dạy lịch sử ở Đại học Harvard, Hoa Kỳ và bà Hồ Đào sống ở Sài Gòn” [tr.93]; “Mang Viên Long sinh ra và lớn lên ở An Nhơn, Bình Định trong một thời điểm lịch sử nóng bỏng của dân tộc (1944)...” [tr.225]. Đặc biệt, đối với những tác giả sáng tác trong các đô thị miền Nam trước năm 1975, người viết không chỉ giới thiệu nhân thân, hành trạng cuộc đời và hành nghiệp văn chương, mà còn có sự so sánh, đối chiếu với các tác giả cùng thời, tạo điều kiện cho người đọc sống ở từng thời điểm lịch sử khác nhau, có thể hình dung rõ bức tranh của đời sống văn học một cách sinh động, đa chiều, đa sắc để chỉ ra nét riêng trong phong cách của từng chân dung văn học: “Sánh vai cùng bạn văn nữ đương thời, Nguyễn Thị Thụy Vũ không sắc sảo và nổi loạn trong miêu tả thân xác như Trùng Dương; không tinh tế, yểu điệu trong câu chuyện gia đình như Túy Hồng; không vừa mơ mộng vừa quyết liệt trong tình yêu và trong nhãn quan xã hội như Nhã Ca; không lê thê thi hóa những câu chuyện tình như Nguyễn Thị Hoàng. Thích cái cường tráng tràn đầy sinh lực, thích kiểu nói dân dã, sôi động, buông tuồng mà chân thực hơn là sự kiểu cách tinh tế duy mỹ, Nguyễn Thị Thụy Vũ quan sát tận tường, miêu tả táo bạo, phơi mở nhiều cảnh huống, dõi theo nhiều số phận, chạm khắc những tâm trạng, tung hứng nhiều lời thoại đa sắc điệu: lúc dí dỏm, lúc tục tằn, lúc tràn đầy bạo lực... tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói với chúng ta bà là nhà văn hiện thực bẩm sinh” [tr.178]. Ngay cả với Nguyễn Nhật Ánh, một hiện tượng văn học hiếm hoi trong văn chương Việt, cả về số lượng đầu sách và trang in, có thể sánh ngang với học giả Nguyễn Hiến Lê trước đây, đã từng có hàng trăm bài viết, có cả ba cuốn sách dày người ta không tiếc giấy mực luận bàn về anh. Và, với Nguyễn Thị Thanh Xuân, đó là người bạn cùng tuổi, cùng quê, cùng học một trường từ thuở tiểu học, rồi cùng “thành danh nhờ mảnh đất Sài Gòn” [tr.7], chị viết với tất cả sự đồng cảm mãnh liệt của một tùy bút chân dung xuất sắc nhất, nhưng không chỉ dừng ở cảm xúc, mà còn ngồn ngộn những thông tin mới mẻ, cứ liệu khoa học xác tín, mà không phải ai cũng biết: “Cho đến nay (2019), Nguyễn Nhật Ánh có trên 100 tác phẩm và số lượng sách tái bản thường rất lớn. Chỉ trong 20 năm đầu của thế kỷ XIX, anh đã có gần 40 tác phẩm mới. Truyện dài Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (2008) được giải ASEAN 2010, đã dịch ra tiếng Thái, tiếng Hàn và tiếng Anh. Truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (2010) là một hiện tượng văn học: 27 lần tái phát hành với số bản in 129.000 bản, được chuyển thể thành một bộ phim điện ảnh có cùng tên, công chiếu năm 2015, với doanh thu cao” [tr.278]. Có những trang viết của chị, vượt ra ngoài phạm vi văn chương, vì văn chương không dừng lại ở tư tưởng chung chung, mà trước hết văn chương là văn hóa, là triết học, đạo đức, chính trị, xã hội... Viết về Phùng Khánh, Mang Viên Long mà không am hiểu Phật giáo, hoặc viết về Bùi Giáng, Hồ Hữu Tường, Triệu Sơn và cả Phan Khôi, Thiếu Sơn mà không am hiểu các trào lưu triết học hiện đại thì không thể thành công được...
Chân dung văn học của Nguyễn Thị Thanh Xuân, có cái là tùy bút, có cái là bút ký, có cái là ký chân dung, nhưng cũng có cái chỉ là một bài nghiên cứu phê bình tác giả, tác phẩm bình thường. Ở những tác giả có điều kiện gặp gỡ, tiếp xúc dường như trang viết tỏa ra hơi ấm nồng nàn, chứ không nguội lạnh tro than như những công trình nghiên cứu. Người viết chỉ tập trung khắc họa chân dung tinh thần, chứ ít quan tâm đến diện mạo con người vật chất. Đành rằng, chân dung văn học chủ yếu là được khắc họa thông qua trang viết, nhưng nếu có vài nét chấm phá về ngoại hình, người đọc có thể dễ hình dung trọn vẹn được mỗi bức chân dung. Thật hiếm hoi những miêu tả các chi tiết liên quan đến ngoại hình như trong Tưởng niệm Tô Hoài, chị viết rằng: “Nhớ đến Tô hoài hôm nay, là nhớ đến một người văn và đời văn tủm tỉm nụ cười. Nụ cười ấy vừa trẻ thơ láu lỉnh vừa lão thực trầm tư. Ông không mang lại cái nhìn ngạc nhiên. Ông ít tạo nên kịch tính vậy mà trang viết của ông vẫn cứ tươi mới, vẫn cứ đầy ắp những giao cảm âm thầm” [tr.159]. Quả thật, nhớ Tô Hoài, là người ta nhớ nhất nụ cười của ông. Nụ cười ấy như một thứ khúc xạ ánh sáng, tràn qua trang văn đầy ắp những sự kiện của ông, lấp lánh khó quên.
Điều cuối cùng có thể nhận ra từ công trình chân dung văn học của Nguyễn Thị Thanh Xuân, là từ vùng sinh quyển mà chị chăm chút dệt nên từng bức chân dung, đã tạo nên những sinh thể văn chương sinh động thật sự, bên cạnh đó, còn có những liên tưởng, phái sinh để người đọc có thể hình dung ra một sinh thể thứ 19: đó là hình tượng tác giả, tuy vô hình, nhưng là có thật, theo dõi từng số phận, hành trạng cuộc đời và hành nghiệp văn chương của từng người, lúc nào có mặt, dường như luôn đi lại, nói cười, trao đổi cảm thông... Không nhiều bài và thỉnh thoảng mới xuất hiện người xưng “tôi” trong trang viết, một cách có ý thức của tác giả. Hơn ai hết, người viết phê bình là người cố tình trốn lặn đằng sau câu chữ, nhưng tùy thuộc vào cảm xúc, tình cảm nặng đầy trên từng trang viết, vô tình làm hiện ra chân dung tự họa của người viết. Với Nguyễn Thị Thanh Xuân, đó là sự cảm thụ tinh tế, tình cảm đằm thắm và sự tự tin một cách xác tín. Qua mỗi trang viết nặng đầy cảm xúc của chị, có thể nhận ra một điều chắc chắn rằng, chị phải quý trọng các tác giả nhiều lắm và dành cho họ những tình cảm chân thành cũng như tình yêu chị dành cho văn học. Tuy không được đọc hết các công trình của chị, nhưng kể từ cuốn sách đầu tay chị viết chung với người bạn đời của mình là Giáo sư, tiến sĩ văn học Huỳnh Như Phương (1986) đến nay, tôi vẫn nhận ra, qua trang văn những ấm nồng cảm xúc.
P.P.P
(TCSH373/03-2020)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?
MINH QUANG Trời tròn lưng bánh tét Đất vuông lòng bánh chưng Dân nghèo thương ngày Tết Gói đất trời rưng rưng...
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.
Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.
NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.
ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.
HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.
FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.
VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi Từ khi mới ra đời làm người Phạm Duy
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.
MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.
LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.
MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.