173 chuyện về Hà Nội phố

15:15 02/01/2009
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

Bỗng nhiên, trong mấy năm trở lại đây, người đọc thấy bên cạnh Băng Sơn nhà thơ, lại xuất hiện thêm một Băng Sơn viết văn xuôi với tất cả sự khoẻ khoắn, cường tráng, mạnh mẽ tuôn chảy như không có gì ngăn cản nổi, như có một trữ lượng đã trầm tích lâu ngày, làm tổ trong tâm hồn ông, nay mới có điều kiện bộc lộ, mới tìm được giọng điệu của chính mình.
Chỉ tính riêng năm 1993, khi mái tóc đã trắng màu thời gian và tuổi đời đã bước vào ngưỡng cửa sáu mươi, ông liên tục cho ra mắt độc giả ba cuốn sách, gồm 173 chuyện viết về Hà Nội, với gần sáu trăm trang sách: Thú ăn chơi người Hà Nội (Nxb Văn hoá), Hương sắc bốn mùa (Nxb Phụ nữ), Ngàn mùa hoa (Nxb Phụ nữ). Thì cũng là con người đó, tâm hồn đó thôi, có khác chăng là, qua rồi cái thời yêu đương sôi nổi, dễ vui dễ buồn, để nay tình yêu lắng lại, kết tủa thành ngôn từ với tất cả sự điềm tĩnh, cô đọng và đủ độ chín, độ sâu của đời sống. Và, điều ấy buộc phải dùng đến ngôn ngữ thô mộc của chính đời sống, mới có thể biểu hiện đúng những gì đang trỗi dậy, chảy qua tâm hồn ông. Văn xuôi của Băng Sơn có cái là tuỳ bút, là tản văn, có cái là đoản văn, là ngẫu văn, thậm chí có cái là tạp văn, là ét-xe (aissai), có cái là sự hoà trộn thật khó phân biệt tiểu loại, nhưng đều được ông gọi chung là tuỳ bút.

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, ông cho rằng: “Tôi nguyên là người làm thơ. Tôi quan niệm rằng, tuỳ bút rất gần với thơ. Tuỳ bút và thơ như anh em sinh đôi. Tôi suy nghĩ như thế này không biết có đúng không: Tôi tư duy bằng thơ nhưng tôi biểu hiện ra bằng văn xuôi. Tôi đi sâu vào một tiểu loại mà hầu như lâu nay  không ai viết, đó là đoản văn, mỗi bài chỉ độ ba, bốn trăm chữ, chưa đầy một trang giấy đánh máy. Tôi cho rằng, nếu viết những đoạn ngắn này cho thật hay, thì mỗi bài như vậy, nó cũng sẽ nói lên được một vấn đề, hoặc giới thiệu được một cảnh vật, một nét văn hoá, thí dụ như một cây khoai nước, một cái cầu ao, một cái tháp nước,...Viết vài ba trăm chữ mà người đọc thích, cũng là điều đáng viết” (1).

Cả ba cuốn sách, tuy có thể được viết ra trong ba thời điểm khác nhau, nhưng cùng được ấn hành trong một năm, và khi đặt cạnh nhau, như những bức tranh liên hoàn về diện mạo đời sống văn hoá tinh thần của Hà Nội. Lẽ cố nhiên, sự bắt đầu của Băng Sơn là đi từ đời sống vật chất, từ những hình ảnh thân quen như chuyện ăn, chuyện mặc, thú vui chơi ca hát, các buổi tiệc tùng, phong tục tập quán... Nhưng, tất cả đều được nhìn dưới góc độ văn hoá tinh thần, để tạo nên một thế giới hình tượng qua những trang văn giàu cảm xúc, mang vẻ đẹp đích thực của văn hoá Thăng Long, và rộng hơn, có thể nói là văn hoá dân tộc, từ trong cội nguồn của lịch sử. Ở Thú ăn chơi người Hà Nội (270 tr.), gồm 20 chuyện về ăn, 15 chuyện về chơi, 10 chuyện về thời tiết, khí hậu, hoa lá, cỏ cây... không chỉ có giá trị về văn chương mà còn có giá trị thực tiễn. Chẳng hạn, những trang viết về các món ăn như Bát nước chấm, Gia vị, Món luộc, Bánh đúc quê hương, Bánh dày bánh giò, không chỉ mang lại những hiệu ứng thẩm mỹ cho người đọc mà còn là những bài học về nữ công gia chánh, về công việc Nội trợ của người phụ nữ, đồng thời còn thể hiện tác giả là người có “tâm hồn ăn uống” một cách sành điệu: “Đang đói mà mất hứng, mà phí công đi xa, ăn không thấy ngon nữa, vì cháo gà, hỏi đến hạt tiêu, ông hàng cháo bảo không có, chỉ có tương ớt. Cháo gà mà ăn với tương ớt thì như thịt gà chấm với nước cáy vậy...”. Hương sắc bốn mùa (192 tr.), gồm có 33 chuyện, là sự tiếp tục mạch cảm xúc trong Thú ăn chơi người Hà Nội, nhưng có phần đi sâu vào những phong tục tập quán, những di tích văn hoá lịch sử, những lễ hội truyền thống dân gian nhiều hơn.

Cũng bắt đầu từ văn hoá vật chất như Nồi cơm, Bát cháo, Chén canh, Món xôi đến các di tích văn hoá, các mỹ tục như Ăn tết chơi tết, Hát văn, Cửa ô, Hàng Bạc, Phố Huế, Yên Phụ... Chuyện không chỉ có vậy, từ việc này ông có thể hướng người đọc liên tưởng đến việc khác, hình dung ra những điều đằm sâu, nén chặt bên trong. Nói đến Nồi cơm (4 tr.), nhưng thực ra ông còn nói về tấm lòng người mẹ, người phụ nữ Việt Nam, chỉ qua vài câu có thể hình dung ra tất cả những đức tính, những phẩm chất mà đôi khi những đúc kết thành khẩu hiệu làm người ta khó hình dung: “Những bát cơm đầy ân tình... Ăn trông nồi... Mẹ là người cầm chịch. Mẹ ăn nhỏ nhẻ, ngắm xem, quan sát những người thân yêu nhất của mình trong bữa ăn, giờ đông đủ nhất của cả gia đình...Thừa, thiếu, hay đủ, đều do mẹ. Có khi mẹ bảo tự nhiên hôm nay no, ăn ít đi. Có khi mẹ lại ăn cố...Chúng ta đâu biết tình mẹ bao la trong hành động con con ấy. Cũng có khi nồi cơm đã tơi rồi mà mẹ vẫn không ngơi tay cứ đánh mãi...Mẹ chờ cái bát không của ai đó sắp đưa cho mẹ.” Liệu ngày nay còn mấy ai dạy cho con gái mình những điều này và những bà mẹ trong tương lai mấy ai còn biết ăn phải trông nồi!

Ngàn mùa hoa (132 tr.), gồm 95 chuyện tập trung cho đối tượng độc giả ở lứa tuổi mới lớn với những cảm xúc trong lành, tươi non được ông mở rộng ra một không gian xa hơn về các làng quê phố huyện như Tiếng hát đồng quê, Cây đa làng, Cái tết làng, Đám cưới quê, Điếm canh đê, Ăn bánh chưng, Cánh bèo, Đò ngang, Đò dọc... những chuyện tưởng như không có gì và không còn gì để nói nữa, nhưng với ông, mỗi sự việc, mỗi đồ vật đều có một đời sống riêng, đều có thể trở thành đối tượng để đối thoại, giãi bày, và đã trở thành thế giới tâm hồn của nhà văn lung linh toả bóng. Cái không khí đặc sánh chất thơ trong Đêm ca trù với tiếng sênh phách gõ nhịp vào tâm hồn người đọc, làm trỗi dậy một không gian mơ hồ trong ký ức xa xôi: “Ta ngồi một mình trong đêm xuân nghe từng bước thời gian đang vần chuyển gấp gáp, vội vàng, vừa rón rén khoan thai e lệ, hồi âm lại hồn ta trong tiềm thức  trẻ thơ cũng được sống cùng không khí ẩn hiện tài tình như thế”.

Cũng chính những chuyện không có chuyện, không còn chuyện để nói đó, đã từng được nói đến trong cổ tích, trong truyền thuyết, chuyện kể dân gian, trong những trang văn đầy ắp hương hoa của những cây bút tài hoa một thời làm say lòng người đọc như Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, nay cũng chỉ là những chuyện cũ ấy thôi, bỗng cựa quậy, sống dậy trong tâm hồn Băng Sơn, đòi lên tiếng, ngân lên bao điều mới mẻ, bất ngờ làm cháy lòng người đọc. Có lẽ, bởi cọc neo chính của dòng chảy đời sống văn hoá tinh thần của các nhà văn đều có chung cái cốt lõi, đó là tình yêu mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng,Việt Nam nói chung, là truyền thống, là cốt cách tâm hồn dân tộc, những điều căn cốt làm nên bản sắc văn hoá của đất nước, đã thắm một màu Việt Nam, không hề bị tàn phai qua bao nỗi thăng trầm. Văn xuôi của Băng Sơn là văn xuôi trữ tình phong tục. Do đó, ông rất gần với Thạch Lam trong Hà Nội ba sáu phố phường, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai Miếng ngon Hà Nội, Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời. Trong trả lời phỏng vấn báo chí ông cũng từng thừa nhận là thích ba tác giả đàn anh này (2). Có người cho rằng, do ông ra đời ở xứ Đông, cách Hà Nội bốn mươi cây số, ở làng Cẩm Giàng, nơi có cái ga sầm uất, nơi sinh ra ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam, nên “trong văn Băng Sơn phảng phất cái trong sáng, đôn hậu, chan chứa tình người của Thạch Lam, cái đằm thắm của Hoàng Đạo, cái mơ màng của Nhất Linh”.(3)

Điều quan trọng hơn là cùng quan tâm về một vùng văn hoá, một miền quê sáng tác, nhưng mỗi người có một giọng điệu văn chương. Ở Băng Sơn, cũng có một chút lịch sử, một chút cổ tích hoặc truyền thuyết, chuyện kể dân gian, được thể hiện thông qua bút pháp tự sự thấm đẫm chất trữ tình, vừa ngắn gọn, súc tích, vừa chính xác đến từng chi tiết, mỗi đoản văn chỉ từ một đến năm trang sách, vừa phù hợp với tâm lý người đọc hiện đại, vừa phù hợp với mọi lứa tuổi. Chẳng hạn, Ngàn mùa hoa, gồm 95 đoản văn, gói gọn trong 132 trang sách, ông viết dành cho lứa tuổi học trò, khoảng từ mười hai đến mười sáu, mười bảy tuổi, là sự “nhắc nhở kín đáo của Băng Sơn với việc bảo tồn nền văn hoá dân tộc và làm phong phú tâm hồn cho lớp lớp trẻ thơ” (4), nhưng thật ra còn là những câu chuyện bổ ích cho những người làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, khi đến với Ngàn mùa hoa như bắt gặp những tia hồi quang êm dịu trong ký ức một thời đã trôi xa, không ngừng phát hiện để có thể hiểu thêm về mình và con cháu mình. Đặc sắc nhất là những trang hồi ức kỷ niệm, là sự thật cuộc đời của nhân vật trữ tình, cũng chính là hình tượng của tác giả, của người thân như luôn đồng hành cùng với cuộc sống của dân tộc, của đất nước. Hãy nghe Băng Sơn giải thích về công việc của mình: “Có ai không trải qua niềm vui hay nỗi buồn khi con tàu chở mình bắt đầu chuyển bánh rời ga, rền rĩ hồi còi, sầm sập uốn mình lao đi...” Có thể tìm thấy rất nhiều đoạn văn hay và đẹp, đọc lên mọi người đều thấy sự hồn hậu, nhân ái, gần gũi với tâm hồn mình trong trang viết của ông.

Băng Sơn làm thơ, diễn kịch từ thuở còn là học sinh Tú tài những năm năm mươi của thế kỷ XX, tham gia đoàn nhạc kịch Tháng Mười chào mừng giải phóng Thủ đô, rồi có thơ in cùng thời với Ngô Văn Phú, Bùi Minh Quốc, Trần Nhật Lam, Vân Long, nhưng mãi đến năm 1984 ông mới có tập “thơ ba người” Nắng bên sông (chung với Nguyễn Xuân Thâm và Lư Giang, Nxb Tác phẩm mới), sau đó là tập Thơ hai người (chung với Nguyễn Hà, Nxb Văn hoá, 1992). Nhưng bắt đầu từ “bộ ba liên hoàn” với 173 chuyện về Hà Nội phố (1993) đến nay, ông liên tục cho ra mắt độc giả gần mười đầu sách: Con thuyền hoa (Kim Đồng, 1995), Nước Việt hồn tôi (Phụ nữ, 1995), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 2, Văn hoá, 1996), Bóng bảy màu (Kim Đồng, 1996), Nghìn năm còn lại (Hà Nội, 1996), Cái thú lang thang (Hà Nội, 1997), Đường vào Hà Nội (Hà Nội, 1997), Con chim gọi quả (Kim Đồng, 1997), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 3, Thanh niên, 1999) và còn chuẩn bị cho ra mắt cuốn Một trăm ngôi nhà Hà Nội... Quả là, mấy nghìn trang sách đã tạo ra một Băng Sơn đa tài nhưng cũng rất đa đoan,  hay như cách gọi của Vân Long là “nhiều nhà trong một nhà”: nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch (tác giả mười vở kịch thơ đã được công diễn và nhiều vở phóng tác từ tác phẩm nước ngoài như Những người khốn khổ, Ngài tổng thống, Tristant và Yseul...), nhà diễn kịch, nhà báo (phóng viên các báo Thuỷ sản, Độc lập...), nhà Hà Nội học, nhà chơi đào thế, nhà... ăn chơi học! Phải ăn và chơi như thế nào mới thấm đẫm vào trang văn mượt mà, sâu sắc và cũng sành điệu đến mức ấy chứ! Trong các nhà ấy, nổi bật nhất là nhà văn, nhà tản văn phong tục đặc sánh trữ tình về văn hoá Hà Nội. Với tôi, có chút thiên vị của người dân ngụ cư, gần gũi và ấn tượng lâu bền nhất, là những trang ông viết về  Huế, có liên quan đến Huế, như Phố Huế, Nguyễn Bính với cố đô Huế, Bến Ngự- hồn ca...
            P.P.P

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



-------------
(1), (2), Trả lời phỏng vấn báo Thừa Thiên - Huế  30. 4. 1997
(3), Nguyễn Kế Nghiệp, Băng Sơn- cây bút tài hoa của đất Hà Thành, Hội thảo Tuỳ bút của Băng Sơn về Hà Nội, ngày 23. 4. 1996 tại Thư viện Hà Nội.
(4), Hoàng Quốc Hải, Băng Sơn- từ Ngàn mùa hoa qua Hương sắc bốn mùa đến Nước Việt hồn tôi, htđd.


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.

  • INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

  • VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.

  • HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.

  • NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.

  • L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire  francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

  • NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).

  • ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre),  tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.

  • MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.

  • HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.