Nhà văn Nguyễn Quang Hà - Ảnh: baothuathienhue.vn
Ngoài các tập sách viết theo các thể loại khác, riêng tiểu thuyết anh đã công bố đến tập thứ tám và hầu hết nhân vật, địa bàn, lời ăn tiếng nói đều mang đậm chất cố đô Huế và đều gây được ấn tượng với đông đảo bạn đọc. Tiểu thuyết “Vùng Lõm”(1) của Nguyễn Quang Hà lại là một thành công mới của anh. Đây là cuốn sách anh viết trong thời gian dưỡng bệnh vì phải mổ đi mổ lại nhiều lần. Hồi ấy, có lúc bạn bè tưởng anh khó qua khỏi, nhưng các thầy thuốc giúp anh vượt qua và anh còn hoàn thành cuốn tiểu thuyết “Vùng Lõm” dầy dặn - 454 trang khổ rộng. Đây là tác phẩm tái hiện cuộc sống và chiến đấu của quân và dân Thừa Thiên - Huế ở vùng giáp ranh giữa ta và địch trong sự tranh chấp ác liệt ở làng Hiền Mai, xã Mai Trung, cách không xa sân bay trực thăng I-ri-na của Mỹ, đây là binh chủng thực hiện chiến thuật “trực thăng vồ mồi” của Mỹ - ngụy làm cho nhân dân và quân Giải phóng Thừa Thiên - Huế rất khó khăn không chỉ trong chiến đấu mà cả trong cuộc sống thường nhật, nhiều chiến sĩ quân Giải phóng và người dân bất thần bị trực thăng Mỹ “vồ” mất tích. Để chống lại chiến thuật độc ác ấy của địch, Thành đội Thừa Thiên - Huế quyết định phải diệt tận gốc chiến thuật ấy là xóa sổ sân bay I-ri-na (tên một cô gái người Mỹ) và tiêu hủy hoàn toàn số máy bay trực thăng hiện có ở sân bay này. Đây là đề tài mới nghe tóm tắt có người đã cho là “khô như củi”, “xưa như trái đất”, với nhiều người viết đây là cửa ải tường cao, hào sâu khó vượt qua, vì đã có nhiều nhà văn rất thành công về đề tài này. Nhưng với tôi, khi đọc “Vùng lõm” đã bị cuốn hút và không thể không đọc suốt từ đầu đến cuối cuốn sách vì nó không “khô” và cũng không “xưa”. Nhà văn Nguyễn Quang Hà đã “bài binh”, “bố trận” khá hợp lí đến độ thuần thục bút pháp trần thuật làm cho câu chuyện toát lên tính nhân văn khá sâu sắc và hấp dẫn. Dẫn dắt câu chuyện là mối tình như “thiên định” giữa sĩ quan trinh sát Nguyễn Văn Dư - người con ưu tú của miền Bắc, đang học dở đại học ở Hà Nội, tình nguyện vào Nam đánh Mỹ và cô gái giao liên Thu Hoài là nữ sinh trường Đồng Khánh - Huế tự giác “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu”. Họ là đôi trai tài, gái sắc mới gặp nhau lần đầu mà đã tưởng như duyên xe trời định, dù trong hoàn cảnh một trai một gái trong rừng sâu hay dưới hầm bí mật họ vẫn giữ gìn và trân trọng mối tình trong trắng để hoàn thành nhiệm vụ, không vin vào hoàn cảnh chiến tranh sống nay, chết mai để sống gấp, sống tận hưởng. Tình yêu của họ đem đến cho người đọc những trang viết về sự lãng mạn cách mạng mà như trời sinh ra họ để đến với nhau, hỗ trợ lẫn nhau vượt qua tất cả vì nghĩa lớn là “cứu dân, độ thế”. Họ bất chấp sự rình rập từng giây từng phút của mật vụ, cảnh sát, dân vệ địch đông như kiến cỏ ở cái vùng tranh chấp này, họ mưu trí len lỏi vào sống với dân, không chỉ để giác ngộ nhân dân mà còn gây được cảm tinh với các gia đình có con đi lính cho giặc, kể cả gia đình sĩ quan ác ôn như gia đình sĩ quan Phan Lộc thuộc lữ đoàn “trâu điên”, lôi kéo được cả tiểu đội dân vệ về với cách mạng, lĩnh lương của Mỹ-ngụy, nhưng lại làm việc cho ta, tranh thủ được sự giúp đỡ của giáo sư Nguyễn Bản, trường Quốc học Huế về Hiền Mai ở ẩn... tất cả chỉ bằng lòng nhân ái bao dung và chính nghĩa của cách mạng là đánh đuổi giặc ngoaị xâm, giành lại độc lập thống nhất đất nước, đem lại tự do và cơm no, áo ấm cho mọi người. Không chỉ có thế, trong cuộc tranh chấp lòng dân giữa một bên quân địch được trang bị vũ khí hiện đại với một bên là các chiến sĩ cách mạng đánh du kích với mấy khẩu súng bộ binh, Nguyễn Văn Dư người đại diện cho cách mạng, đại diện cho chính nghĩa, không chỉ bằng tình cảm chân thành mà còn bằng mưu trí và sự dũng cảm của sách lược “lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh” làm thất bại mọi âm mưu của địch, anh dấn thân vào tận sào huyệt quân địch để tìm hiểu mọi mặt của chúng, định ra phương sách tiêu diệt chúng, làm cho nhân dân làng Hiền Mai không chỉ cảm phục anh mà còn làm tai mắt cho anh, đứng hẳn về với chính nghĩa. Kể cả những người đã trót làm tay sai cho giặc và những tên kình địch với anh như tên Tô, xã đội trưởng xã Mai Trung, vì hám danh lợi, hám người đẹp Thu Hoài đã quy hàng địch, cam lòng làm tay sai cho giặc, đưa giặc về làng chỉ điểm từng hầm bí mật của những người vốn là đồng đội của hắn... cũng phải kính trọng anh. Chính vì thế, anh đã xây dựng được thế trận lòng dân bao vây chung quanh sân bay I-ri-na mà quân địch không phát hiện được vì đã có bức thành nhân dân che chắn. Nhưng trước ngày xóa sổ sân bay I-ri-na và tiêu hủy toàn bộ 150 máy bay trực thăng của địch, Nguyễn Văn Dư đã dũng cảm hy sinh. Không phải vì anh lâm trận quân thù mà vì Mỹ - ngụy quá tàn ác, chúng bắt tất cả người dân Hiền Mai nhốt lại, mỗi ngày chúng giết một người, nếu họ không khai Nguyễn Văn Dư hiện ở đâu trong cái làng này, hoặc Nguyễn Văn Dư không tự ra trình diện. Bà con Hiền Mai thì thà chết chứ không chịu khai báo để quân thù sát hại một chiến sĩ quả cảm, hết lòng vì dân như Nguyễn Văn Dư. Lúc này trận đánh sân bay I-ri-na anh đã chuẩn bị xong mọi mặt, chỉ còn chờ cấp trên điều quân chủ lực và tên lửa đến để phát hỏa. Sang ngày thứ hai, chúng đã sát hại hai người dân vô tội, Nguyễn Văn Dư đành lỗi hẹn tình yêu với Thu Hoài, lỗi hẹn với trận đánh cuối cùng, lỗi hẹn với ngày toàn thắng, lỗi hẹn với ngày trở lại học đường đại học, anh hùng dũng bước ra cáo lỗi với nhân dân và sẵn sàng nhận những phát đạn của quân thù để cứu dân Hiền Mai. Bằng lối kể chuyện tuần tự theo thời gian và diễn tiến của sự việc, không sa đà vào bắn giết mà khắc họa bằng các tình tiết để làm rõ tính cách và tâm lý các nhân vật để dẫn dắt câu chuyện từ chương trước sang chương sau, không cho người đọc ngưng nghỉ. Nếu tác giả không là người có cả chục năm sống và chiến đấu cùng quân và dân ở đây thì không thể khắc họa câu chuyện suốt 454 trang sách một cách sống động như vậy. Đọc hết trang cuối của cuốn sách tôi gập lại mà vẫn cầm mãi trên tay để suy nghĩ. Thì ra thời nào cũng thế, trong công cuộc lớn, nhỏ nào cũng thế, hễ cán bộ mẫu mực, tận tụy với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc thì nắm được dân, được nhân dân hỗ trợ thì việc ấy dù khó đến đâu cũng thành công. Tiểu thuyết “Vùng lõm” của Nguyễn Quang Hà đặt ra nhiều vấn đề của chiến tranh nhân dân và thời cuộc, điều mà tôi cảm nhận sâu sắc nhất là thế trận lòng dân, có nhân dân là có tất cả, mất lòng dân thì dù mạnh đến đâu cuối cùng cũng thất bại. Hà Nội, tháng 9 - 2010 T.H (265/3-11) ----------- (1)“Vùng lõm”, tiểu thuyết của Nguyễn Quang Hà, nhà xuất bản Quân đội nhân dân 2008. |
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Nguyễn Thị Lê Na không thuộc lớp “cây bút trẻ” (chị sinh đúng vào năm đất nước thống nhất - 1975), lại phải gánh nhiệm vụ quản lý một tạp chí văn nghệ, nên sau “Bến Mê”, đến nay chị mới xuất bản “Đắng ngọt đàn bà”(*) (ĐNĐB).
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).
NGỌC BÍCH
(Đọc "Thơ Ngô Kha"*)
Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).
PHẠM TRƯỜNG THI
Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.
HỒ HUY SƠN
Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.
HỒ THẾ HÀ
Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
• Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.
TRẦN THÙY MAI
Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!
NGUYỄN QUANG THIỀU
Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.
VŨ VĂN
Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.
ĐỖ QUYÊN
1.
Du Tử Lê thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)