“Trong vô tận” tình yêu là nỗi cô đơn...

10:12 08/01/2021

VŨ NGỌC GIAO    

Có một lần tôi đã chia sẻ với nhà văn Vĩnh Quyền rằng, tôi rất thích Rừng Na uy.

Trong vô tận của ông cũng vậy, cả hai tiểu thuyết cùng giống nhau ở một điểm: Gấp sách, cảm xúc còn lại tôi thấy cô đơn, dù H. Murakami hay Vĩnh Quyền đều không hướng tới sự bi lụy trong tình yêu. Nhưng không hiểu sao, tình yêu “trong vô tận” với tôi vẫn là những nỗi cô đơn…”.

Tôi từng đọc “Trong vô tận” trên ebook, còn nhớ đó là một đêm tháng 6 năm 2019. Tôi đọc một mạch không dừng lại.

Đọc “Trong vô tận”, nhiều nhà phê bình đã có cái nhìn sắc bén. Tôi đọc “Trong vô tận” với cảm xúc của một người đàn bà trước những câu chuyện tình buồn và đẹp đến nao lòng. Tháng 7 năm 2019 nhà văn Vĩnh Quyền tặng tôi cuốn tiểu thuyết này. Và tôi đọc nó lại một lần nữa vì với tôi, đọc tiểu thuyết trên sách giấy vẫn thú vị hơn trên ebook. Những câu chuyện tình của các nhân vật “trong vô tận” lôi cuốn tôi đến trang cuối, gấp sách lại cảm xúc của tôi như vừa qua một cơn mộng mà ở đó nỗi cô đơn ngự trị. Các nhân vật “trong vô tận” qua nhiều thế hệ, đan xen giữa hồi ức và hiện tại, những gia phong, lễ giáo ở chốn Cố đô u trầm, cổ kính nhưng không kém phần lãng mạn. Lồng vào những câu chuyện lịch sử là những chuyện tình xuyên suốt đẹp và dở dang.

Những nhân vật trong tiểu thuyết ở độ tuổi thanh xuân, thuộc nhiều thế hệ một dòng họ vương triều ở Huế. Trong hồi ức của thế hệ đã qua và thế hệ hiện tại, những chuyện tình đã biến động theo hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, mỗi nhân vật một số phận, đưa người đọc lạc vào vô tận “trong bước đi âm thầm không cưỡng của bóng tối”.

Ở đó ta bắt gặp một tình yêu đầy bao dung, âm thầm và tự giam hãm của Nhàn, một cô gái lớn lên trong cô nhi viện dòng nữ tu, ẩn mình khổ hạnh, một cô gái “gần như lặng lẽ suốt bên khung thêu”. Và trong đêm “tay tôi tìm tay mẹ, đặt lên ngực mình, mân mê và níu giữ như sợ thất lạc. Chợt dừng lại, tôi thoáng nhận không phải tay mẹ” và “tôi dần hiểu chuyện gì xảy ra. Chỉ mình Nhàn bận tâm đến tâm trạng tôi, biết tôi đang ở đâu và không nỡ để tôi một mình trong bóng tối đêm đầu tiên cách biệt âm dương với mẹ”.

Ta thấy Hoàng, một chàng trai đầy kiêu bạc, nhưng sau vẻ kiêu bạc đó là những góc khuất, một tình yêu đồng tính khổ đau, mà ở xã hội đương thời lúc bấy giờ còn đặt vào đó cái nhìn đầy khắc nghiệt và kỳ thị. Hoàng đã âm thầm chống chọi bản thân để “bảo vệ tôi trước đam mê của chính anh”, để cuối cùng Hoàng tự giải thoát cuộc đời mình khỏi “thế giới anh cho rằng không dành cho mình” bằng một phát súng. “Nơi bia mộ, từ ảnh chân dung, đôi mắt Hoàng trở nên sống động sau làn khói lam mỏng manh vương thinh không”.

Ta thấy một Hạnh nhu mì và đáng yêu trong thân phận tôi tớ “chừ em biết nhiều về dòng dõi nhà anh trong khi không biết chi về nhà em”. Nhưng tình yêu, muôn đời vẫn là con ngựa bất kham và có lý lẽ riêng của nó. Hạnh chờ đợi và hy vọng dù mong manh rằng người cô yêu sẽ trở về với chiếc boomerang - “một thứ luôn trở về sau khi bay đi”. Và Hạnh mãi vẫn thuộc về thân phận vốn đã định sẵn từ khi cô chưa ra đời. Hạnh lấy chồng, đó là số phận và tất nhiên, không cùng người cô chờ đợi. Một đám cưới mà tất cả đều “an toàn”, nề nếp gia phong được gìn giữ. Có khắc nghiệt không? Khi tình yêu đôi lứa ở xã hội giai đoạn đó vẫn đem thân phận ra làm rào cản khiến họ chẳng thể thoát ra? Câu trả lời dành cho người đọc khi hình ảnh người vú già mẹ Hạnh đổ hắt ly sữa đi vì bà “không muốn con gái lặp lại vòng đời của mình”.

Bên cạnh những trang sử đầy bi hùng “Trong vô tận” là tình yêu của tuổi trẻ cuồng nhiệt và đớn đau, âm thầm và dang dở. Tất cả đều bị giam hãm, kiềm nén vì hoàn cảnh, thân phận và cả vì lòng tự trọng, bao dung. Ở đó nỗi đau nào lần hồi cũng được hóa giải, nhưng hóa giải rồi vẫn u uẩn, vẫn đau, để đến cuối đời người trong cuộc vẫn nặng lòng, nhìn đã khác nhưng không thể khác. Ở đó tình yêu tưởng như đã san bằng mọi rào cản để được yêu trong vô tận không gian, trong vô tận thời gian.

Một ngày “Ayumi xứ Phù Tang xuất hiện với hoa cẩm chướng đỏ trên tay” chàng trai vẫn nhớ “lời dặn thiết tha hãy bay trở về như một boomerang” nhưng rồi chàng lại “muốn vượt qua ý định giữ khoảng cách cần thiết” với Ayumi bởi nét tươi trẻ của cô. Nhưng sự tự trọng đã giam hãm họ khi Ayumi biết chàng trai đã có một cô gái ở quê nhà. Sau lần nhập cuộc duy nhất với Ayumi bên cạnh những chiếc sọ người, một sự trừng phạt vô hình và nghiệt ngã đã “dành cho những kẻ mạo phạm?” Còn sự trừng phạt dành cho người ở lại? Đêm đêm chàng trai “quấn chăn ngồi thu lu một góc khóc tới sáng” vì “run sợ, biết trước lại thêm một đêm vật vờ, lại thấy bàn tay Ayumi chới với trước mặt” và cuối cùng “rơi hút vào miệng vực trắng mù bụi nước”.

Một Diệu Lành dễ thương như cái tên, dịu dàng mà quyết đoán, trong “không gian ngả nghiêng” đã khiến một chàng trai “vượt qua ám ảnh mình đã là kẻ nguội lạnh, dửng dưng với tình yêu” vào một “đêm tranh chấp giữa đóng và mở”. Một tình yêu dắt díu nhau, hoang dại, phóng túng và si mê.

Và Linh, cuộc tình cùng “chàng thanh niên trong vương phủ” nhưng không được gia đình người yêu chào đón vì họ không muốn “đứa con trai duy nhất lấy vợ bên đạo”. Chàng “nhảy núi” theo cách mạng mặc cho sự cản trở từ cha. Người cha vì nhớ con đêm đêm “ngồi chơi cờ một mình dưới mái hiên”. Cho đến “một đêm, ông ngẫu hứng đi một quân cờ trắng trước khi vào nghỉ. Sáng hôm sau ra vườn tưới hoa, ông chợt nhận ra quân đỏ đã “động binh” đối ứng. Ván cờ cứ thế tiếp diễn. Mỗi đêm một nước cờ. Có khi hai, ba đêm liên tục. Có khi bẵng mấy đêm mới nối lại”. Những “ván cờ ma” đã đưa người cha từ hy vọng đến tuyệt vọng vì nó cứ “dở dang mãi” cho đến một ngày ông linh cảm con trai không còn trở về được nữa. Một tình tiết hay và xúc động đến nao lòng mà chỉ Vĩnh Quyền, bằng văn phong của ông mới có thể đưa người đọc miên man giữa mộng ảo, thực hư. Người mẹ âm thầm chứng kiến thế sự thăng trầm của gia đình nhưng vẫn không ngừng hy vọng, bà “lặng lẽ dùng keo đính các quân cờ trắng - đỏ đúng vị trí dở chừng trên bàn cờ, và vẫn đặt ở đó, trên trường kỷ dưới mái hiên, như thể cuộc đợi chờ của người mẹ không có điểm kết thúc”. Một chi tiết có thể nói rất hay và “rất Huế” mà chỉ phụ nữ Huế mới đủ kín kẽ, thâm trầm để có thể tạo nên. Một câu chuyện buồn đau mà lại đầy sống động dưới ngòi bút kỹ lưỡng cả về ý tứ lẫn văn phong của Vĩnh Quyền. Một ngày, hài cốt chàng trai tình cờ được tìm thấy dưới chân núi Kim Phụng. Sau nhiều năm xa xứ Linh lại tìm về, cô tha thiết xin được “rải tro cốt của anh xuống quãng sông trước chùa Linh Mụ” theo nguyện vọng của người yêu năm xưa “muốn hóa thân vào đáy sông thơm”. Tro từ lọ sứ trắng bay theo gió chìm vào dòng Hương giang để “mỗi lần nhìn sông Hương” “tôi không còn nghĩ đó chỉ là một dòng sông”.

Một Huế đẹp và thơ, u trầm và đầy biến động đã tái hiện “Trong vô tận”. Từ những câu chuyện tình, những câu chuyện đời ở một vương phủ, Vĩnh Quyền dẫn dắt người đọc đến những câu chuyện lịch sử quen mà lạ. Quen vì tên tuổi những nhà chí sĩ yêu nước mà mỗi người con dân Việt hầu như đều biết đến: Thái Phiên, Trần Cao Vân, Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Đề. Lạ vì ít ai biết một Thái Phiên yêu nước, khẳng khái cho đến chết lại hào hoa đến thế? Lúc ông chết đi ba người đàn bà của ông là Thục Đoan, Tân Dương và Ngọc Băng nước mắt tuôn dài. Họ đều là những người đàn bà đẹp, bên mộ ông họ đã gặp nhau, tựa vào nhau, cùng thấu hiểu và tôn trọng nhau. Khi “chuông chiều từng tiếng rơi trong thinh không vô tận” họ thấy ở nhau nỗi yêu và nỗi đau là một, chỉ khác thân phận mỗi người và “ánh sao nhấp nháy cuối trời xa trông như giọt lệ long lanh dành cho nỗi đau nơi trần thế.”

Viết về lịch sử nhưng ngòi bút của Vĩnh Quyền vẫn đậm chất phiêu lãng khiến người đọc không thể dừng lại vì hấp dẫn và kịch tính. Cùng một lúc ông có thể chuyển tải một cách uyển chuyển trang sử vào trang văn, đó chính là sự tài tình trong văn phong của Vĩnh Quyền ở tiểu thuyết này.

“Trong vô tận, song song gặp nhau?” Hình ảnh Nhàn, mối tình đầu cũng là cô gái xuất hiện “Trong vô tận” từ đầu, xuyên suốt đến kết thúc. Nhàn “thật hiền cùng nụ cười mỉm quen thuộc dù với vành khăn lúp và tà áo thụng nữ tu”. Vĩnh Quyền kết truyện, lại một lần nữa ông đưa người đọc cùng phiêu lãng “trong ánh trăng đẫm vàng”, giữa mộng - thực “từ đồi cát này sang đồi cát nọ”, một cuộc đuổi bắt giữa mộng và thực, giữa hạnh phúc và đớn đau “cho đến khi thấy chỉ còn lại tôi”, cho đến khi “gió hoang mạc đã đưa Nhàn về trời như một thiên sứ”. Một kết truyện đậm chất phiêu lãng và huyền ảo mà Vĩnh Quyền đã khẳng định được tên tuổi trên văn đàn, một cây bút thông minh và uyển chuyển. Viết những câu chuyện lịch sử đan xen những câu chuyện tình đẹp và buồn “Trong vô tận” ông không có ý định khơi lại những nỗi đau, mà ông tái hiện lại một vương triều và bối cảnh xã hội lúc bấy giờ ở cố đô Huế.

Từ “Mảnh vỡ của mảnh vỡ” đến “Trong vô tận” Vĩnh Quyền đã khẳng định vị trí của ông trên văn đàn Việt Nam, một vị trí đáng mơ ước của những người cầm bút. Ông đã đi vào lòng người đọc với tâm thế - một cây bút tài tình, có thể lồng những câu chuyện tình lãng mạn vào những trang sử Việt.

V.N.G  
(TCSH382/12-2020)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.