“Trong mắt tôi” - Sử thi của lửa

09:20 05/06/2008
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

“Trong mắt tôi” là tập tiểu luận mới nhất của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường sau nhiều tác phẩm đã công bố giữa những ngày bạo bệnh, do NXB Hà Nội ấn hành. Tác phẩm bao gồm nhiều bài viết nội dung phong phú khác nhau, chung trong dòng chảy “tiềm thức văn hoá” (từ của K.Jung - Theo Hoàng Phủ Ngọc Tường), bàng bạc suốt tác phẩm lối viết tài hoa của nhà nghiên cứu và sự phóng khoáng thể ký, lãng đãng chất thơ... lung linh trong ánh lửa tinh thần cổ sử dung dị chữ Tình. Vì vậy, theo cảm nhận chủ quan, người viết xin được tạm gọi tập tiểu luận này bằng một tên mới: tiểu luận - “sử thi”.
Tập tiểu luận bao gồm ba phần. Ơ phần thứ nhất, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành những bài viết đậm chất “sử thi” hơn cả để khắc họa chân dung của những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc. Vượt ra ngoài biên độ của người chép sử, ở chân dung nhân vật nào, dù đó là nhân vật anh hùng hay văn hóa, nhà văn cũng xây dựng thành một thế giới hình ảnh như đang trên con đường hình thành và giải trình toàn thể của thế giới tâm linh. Trong cái toàn thể của thế giới tâm linh ấy, những quan niệm về con người sống đã qua của dân tộc đều hiện hữu thống nhất với nhau, liên kết cùng nhau bởi tiếng nói vừa đại diện cho lịch sử, vừa đại diện cho cá nhân nhà văn. Khắc họa chân dung Nguyễn Trãi, Hoàng Phủ Ngọc Tường không ngần ngại khi tổng kết: “Sáu mươi năm đời người, Nguyễn Trãi đã đi hết con đường sấm sét của lịch sử và đã phải tự mình chọn lấy con đường trước ngã ba rối rắm của thời đại ông”. Nhà văn với tất cả tấm lòng yêu thương và đồng cảm, trân trọng đã nhìn thấy sức mạnh trong đôi cánh phượng hoàng của Nguyễn Trãi khi bay trên bầu trời lý tưởng nhân dân, lý tưởng đã “khiến cho ông không bao giờ mất chân trời”, “làm cho ông trở thành con người mạnh hơn cái chết”. Ngợi ca những người anh hùng dân tộc, nhà văn cũng rất khách quan khi nhận về lý tưởng anh hùng thời Nguyễn Sơ qua thơ văn của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát. Đó là lý tưởng anh hùng được nuôi dưỡng và gắn liền với cách thế dấn thân của các nhà tri thức đầu thế kỷ XIX. Xuất phát từ sức sống của nhân vật trung tâm trong lý tưởng anh hùng dân tộc: Nguyễn Huệ. Viết về Nguyễn Huệ, nhãn quan tác giả đã không dừng lại ở khía cạnh con người quân sự mà ai cũng biết, ông đi sâu khám phá một nhà vương đạo xuất sắc trong “chiến lược con người”, khơi dậy nhân cách kẻ sĩ của một thời đại. Qua tiểu luận, có thể thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ có một vốn kiến thức bao quát và hệ thống về văn hóa, chính trị, lịch sử... mà còn có khả năng sử dụng nhuần nhuyễn, uyên thâm những vốn kiến thức cổ thường được mọi người “kính nhi viễn chi” như kiến thức về Dịch học. Bằng những ánh lửa khởi đi từ minh tuệ, nhà văn đã đi vào lý giải lý tưởng “Nhân dịch” qua bài thơ “Vịnh Tam Tài” của Trần Cao Vân, tuy khiêm tốn “tự đặt mình vào vị trí của một học sinh trung học làm bài tập toán hình” nhưng lại khẳng định giá trị của Trung Thiên Dịch Đồ trong tâm hồn nhà yêu nước xứ Quảng. Lý giải mà không hề bị rơi vào khô khan, không vướng mắc cảm quan “chính trị hoá”. Tất thảy đều vượt thoát từ ánh lửa minh tuệ, trình diện cái “tiềm thức văn hoá” không chỉ của người cầm bút mà còn của một dân tộc.
Cũng như nhiều tác phẩm trước, “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành riêng cho Huế những trang văn thân thuộc nhất. Dường như điều đó đã minh thành một cuộc đi tìm cội nguồn của tác giả thông qua những phát hiện mới về dòng văn hoá, về lịch sử các hình tượng trong đời sống... Từ màu tím, điệu hò, câu lý, viên gạch làng Thành Trung âm âm tiếng thời gian, một món ăn đơn sơ hay những ngôn từ xứ “Mệ”..., nhà văn như “người trai đất kinh thành bất chợt qua đây” tình cờ bắt gặp đám cưới huyền thoại Việt - Chăm mà ghi lại bao âm hưởng và dấu tích đã làm nên truyền thống. “Giữa những hình vẽ khắc trên Cửu Đỉnh ở Thế Miếu, vốn được xem như là biểu tượng của toàn bộ tài sản quý báu của đất nước, tôi đã ngạc nhiên và vui mừng biết bao khi tìm thấy hình ảnh của chú ve sầu thời ấu thơ mê mải. Thế đây, trên cánh đồng của di tích, con người lang thang đi tìm lại dấu vết tâm linh của mình, giống như người đàn bà quay quắt đi tìm chiếc trâm cỏ thi bị đánh rơi mà Khổng Tử đã từng gặp và lấy làm lạ (Huế - Di tích và con người). Giọng văn tinh tế, nhẩn nha ấy đã dẫn dắt người đọc đến với truyền thống văn hoá Phú Xuân một cách tự nhiên nhất như đến với ánh lửa ấm áp của tâm hồn đã “trầm mình trong khuôn mặt cuộc đời, cùng đất trời, sông nước của Huế”. (Tô Hoài). Ánh lửa ấy là sự hòa quyện giữa” ngôn ngữ của đêm tối, của yêu thương, của suối reo, của những bài hát tình yêu” và “ngôn ngữ của bình minh” như trong triết lý của Nietzsche để “thức tỉnh” những bước chân thăng hoa hồn nhiên trong trẻo vào thế giới “sử thi” rồi tự mình lãng du, “ham chơi” như một Thiền sư vô hạn cuộc.
Bên cạnh những trang viết nhẩn nha, huyền hoặc, phảng phất hơi thở Thiền tông càng gạn lọc càng lung linh cảm xúc tựa “thế giới hoa cẩm quỳ” của chàng hoàng tử Bé, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn dành cho tập tiểu luận những bài viết về “Chữ Cái” trong điêu khắc Điềm Phùng Thị, thế giới mộng du trong tranh Lâm Triết, thơ của “Người Đãng Trí” Ngô Kha, những suy ngẫm về thể ký... vừa mang cảm thức cá nhân, vừa vận động trong cấu trúc của tư duy bác học. Đó là những trang viết càng làm phong phú thêm “giọng nói ét-xai (essai)” đầy chất triết luận, suy nghiệm từ tâm linh sâu thẳm của nhà văn. Bao giờ cũng vậy. “lẫn trong từng dòng chữ là một nỗi niềm dân tộc lúc nào cũng cuộn lên, chan chứa, không phai lạt” (Thuý Nga).
Vừa huyền hoặc, vừa minh triết, “Trong mắt tôi” của hồn văn, Người - Văn ấy đã “không kinh dinh, cẩn trọng” một cốt cách sử thi “rất nhiều ánh lửa”.
Huế, tháng 11 năm 2001

LÊ THỊ MỸ Ý
(nguồn: TCSH số 154 - 12 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.

  • PHƯỚC GIANGTrung tâm Văn hóa doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo dục vừa tuyển chọn và giới thiệu 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX.Việc này thực hiện trong hai năm, theo ông Lê Lựu, Giám đốc Trung tâm Văn hóa doanh nhân thì kết quả thật mỹ mãn: hơn 10.000 phiếu bầu, kết quả cuối cùng “không ai bị bỏ sót” và “trong 100 bài đã được chọn chỉ chênh với các danh sách khác khoảng 5-7 bài”.

  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.