“Tôi đã nhìn thấy tuổi thanh xuân của thế giới”

16:02 01/06/2010
Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

Viện sĩ Aleksandr Danilovich Aleksandrov - Ảnh: wikipedia.org

- Thưa ông A- lếch- xan- đơ Đa- ni- lô- vích, tuổi thanh xuân của ông trùng khớp với sự ra đời của một thế giới mới. Theo ông thì làm một người cùng tuổi với nước Cộng hòa Xô viết là một niềm hạnh phúc hay một bi kịch?

- Lịch sử đó không đơn thuần là một chiếc cầu thang thuận tiện hướng thẳng đến tương lai. Con đường của nhân loại ít khi chạy trên đồng bằng mà thường là vắt qua núi non hiểm trở. Và những con dốc dựng đứng cũng như vực thẳm hun hút lại trùng với những thời kỳ cách mạng. Nhưng chính nhân loại đã thực hiện những cuộc đi lên cao nhất vào các thời kỳ ấy. “Họ đã chinh phục bầu trời”- Mác đã viết về các chiến sĩ công xã Paris như vậy.

Tôi thuộc về thế hệ những năm 20. Con đường đi của chúng tôi không thẳng tắp và dễ dàng. Chúng tôi đã chiếm lĩnh những đỉnh cao chưa từng thấy và đã bước tới sát bên bờ vực thẳm; có người đã rơi xuống và vĩnh viễn mất hút trong dòng nước chảy xiết của thời gian. Người đời vốn khác nhau, và ở trên đỉnh cao có người cảm thấy tâm hồn phơi phới và hạnh phúc, song có người chỉ thấy chóng mặt và buồn nôn vì lên cao. Và giờ đây, khi thời đại đó đã lùi xa vào dĩ vãng thì có một số người định ngoảnh nhìn lại phía sau. Nhưng họ đã trông thấy gì ở đó?

Cách mạng còn là một bi kịch vĩ đại của lịch sử, xứng đáng với ngòi bút của Sếch-xpia hoặc Tôn-xtôi. Thế mà hiện nay mon men đến đề tài này là những ký giả vốn chỉ quen sáng tác các giai đoạn nhảm nhí về lịch sử.

Khi tôi nghĩ rằng nhà báo của chúng ta có một vị trí hẩm hiu như thế nào trong chế độ hiện nay thì tôi bao giờ cũng nhớ tới một áng văn xuôi của Ai Cập cổ vĩ đại “Chuyện vua Pê-tê-ít đệ tam”: “Cứ mặc cho họ dẫn Sự thật đến và chọc mù cả hai mắt của nó- Dối trá nói- Và để cho nó ngồi gác cổng cho ngôi nhà của ta”

- Qua lời ông, có cảm tưởng là “thời hoàng kim” đối với các cây bút bậc thầy đã xuất hiện ở thời kỳ sau Cách mạng...

- Thế anh biết gì về thời kỳ đó nào? Đúng, tôi rất tự hào là mình thuộc về thế hệ của những năm 20 và tôi khẳng định rằng chưa bao giờ, cả trước lẫn sau đó, ở nước ta lại có sự tự do sáng tác như vào những năm 20. Theo chỉ thị của chính Lênin, tập truyện ngắn “Một tá dao găm đâm vào lưng Cách mạng” của A. A-véc-chen-cô đã được xuất bản, mặc dầu thật khó hình dung nổi một cuốn sách nào có tính chất nhạo báng hơn đối với chính quyền Xôviết so với tập truyện này.

Ngày nay, chẳng hạn, người ta viết rằng chỉ có công cuộc cải tổ mới khám phá ra cho nhân dân những bức tranh, tỷ như “Hình vuông ma thuật” của họa sĩ Ma-lê-vích. Tôi xin phép được nhắc lại rằng vào những năm 20, bức tranh đó đã được tự do trưng bày ở Viện bảo tàng Nga cùng với các họa phẩm khác. Hồi đó đã xuất hiện nhiều trường phái văn học rất khác nhau... Không hề có một sự bức chế nào trong nghệ thuật. Những tác phẩm của Ê-xê-nhin, Pin-nhi-ắc, Xây-phu-lin na mà sau lại bị cấm, đã được in ra thoải mái.

Hiện nay người ta không thể hình dung nổi là một cao trào văn hóa rộng lớn như thế nào đã được dấy lên vào những năm đó. Nhà hát Vác-tan-gốp, Nhà hát tuổi trẻ, nhà xuất bản “Văn học thế giới” đã được thành lập...

Đó là thời kỳ khi mà văn hóa, khoa học và trẻ em là trung tâm chú ý của chính quyền. Trong thành phố Pê-trô-grát đang bị đói vào năm 1918, người ta đã phải ăn bột vỏ khoai tây, song chính hồi đó đã được thành lập Viện Kỹ thuật vật lý và Viện quang học mà các nhà bác học (mỗi Viện đã cung cấp 6 viện sĩ) sau này đã tạo ra tấm lá chắn hạt nhân cho Tổ quốc, còn ở ngoại ô Mát-xcơ-va đã khai trương phòng thí nghiệm nổi tiếng của Viện Khí động lực học Trung ương- điều đó có nghĩa là con đường của chúng ta đi lên vũ trụ đã khởi đầu từ năm 1918 xa xôi ấy.

Các trẻ em cơ nhỡ vào những năm đó đã được đích thân Déc-gin-xki chăm lo, còn bây giờ có ai trong số “các nhà cải cách trẻ tuổi” quan tâm đến số phận của các trẻ em bị ném ra ngoài đường phố?

Vào những năm 20, trên các quảng trường của nước Nga từng bị cuộc nội chiến tàn phá, người ta đã dựng những vở bi kịch của các tác giả cổ đại- cái đó hoàn toàn không giống với những buổi hòa nhạc Rốc điên loạn tại Hồng trường ngày nay.

Các nhà dân chủ bây giờ cũng nên tìm hiểu xem hồi đó người ta đã dạy cho trẻ em những gì. Ở trường chúng tôi, luật sư V.Di-a-cô-nốp đã dạy môn lịch sử hiến pháp Anh quốc mà “các nhà cải cách” của chúng ta cũng nên biết, ở bên ấy tòa trụ sở quốc hội trong suốt tám thế kỷ không một lần nào bị bắn phá.

Còn nói đến sự tàn bạo của thời kỳ đó thì cố thủ tướng Ấn Độ Nê-ru trong cuốn “Nhìn vào lịch sử thế giới” đã dẫn lời của một viên tướng Mỹ tên là Gơ-rép-xơ từng phục vụ trong bộ tham mưu của Côn-tsác (tướng Bạch vệ - L.S) nói rằng cứ một binh sĩ bạch vệ bị Hồng quân bắn chết thì 100 lính Hồng quân phải đổi mạng. Và điều đó có thể hiểu được. Đối với Hồng quân thì những binh lính của đối phương bị bắt làm tù binh được coi là những người mu-gích bị lừa gạt, thế thôi. Nhưng đối với bọn bạch vệ thì tất cả các tù binh đều là kẻ thù.

Lê-nin đã viết “Linh hồn sống động của chủ nghĩa Mác là sự phân tích cụ thể đối với tình huống cụ thể". Vào những năm 20 tất cả chúng tôi sống trong sự chờ đợi ngày hội tương lai của cuộc Cách mạng thế giới, nhưng đến cuối những năm 30 mọi người thấy rõ rằng những hoài bão đó không thể trở thành hiện thực trong một tương lai gần và nước ta một mình nằm lọt thỏm trong vòng vây của kẻ thù. Từ thời điểm ấy chủ nghĩa yêu nước bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở Liên bang Xô viết thay vì chủ nghĩa quốc tế đơn phương trước đó.

Chủ nghĩa cộng sản là một hiện tượng đầy chất thơ và chất bạo liệt. Ở đầu thế kỷ, chủ nghĩa cộng sản đối với thế giới trong hình tượng Prô-mê-tê thách thức các thần linh. Bằng những nỗ lực của các phần tử tầm thường trong Đảng, chủ nghĩa cộng sản bị hạ thấp xuống thành giai thoại trong sinh hoạt- càng có nhiều xúc xích bao nhiêu thì càng tiến gần đến chủ nghĩa cộng sản bấy nhiêu! Và nếu như vào đầu thế kỷ tư tưởng cộng sản có sức quyến rũ trái tim của tuổi trẻ thì theo mức độ mất dần chất thơ, nó càng ngày càng trở thành số phận của người già và đã biến thành bản chỉ dẫn khô khan nhàm chán.

-Theo ông, tư tưởng cộng sản là gì? Có lẽ ông biết một định nghĩa mới nào chăng?

- Chẳng cần đến một thứ hình thức chủ nghĩa như vậy. Đưa ra một định nghĩa chưa phải là nêu lên bản chất. Có khi một dòng thơ còn nói được nhiều hơn là một công thức triết học khô khan. Ta hãy nghe xem Giắc Lơn- đơn viết gì về chủ nghĩa cộng sản: “Tất cả mọi người sẽ trở thành những thợ rèn nên thứ hạnh phúc chung và công việc lao động của họ là rèn nên niềm vui và tiếng cười trên chiếc đe âm vang của cuộc sống! “Tư tưởng cộng sản nằm trong bốn chữ- Lao động và tự do.

- Cái gì chứ tự do thì hiện nay chúng ta đã có quá thừa

- Tự do là một hệ thống được điều chỉnh. Xin đừng lẫn lộn tự do với sự hỗn loạn bát nháo. Đúng là về mặt hình thức thì mọi người hiện nay được cởi trói. Nhưng khi người ta đói thì cánh tay đó tất yếu hoặc chìa ra xin bố thí hoặc thò vào túi người khác. Và quỹ đạo vận động của tự do ngay từ đầu đã được xác định trước. Và không cần đến bất cứ một cái cùm nào! Vậy thì đó là thứ tự do gì?

Còn những người cộng sản chúng tôi, khác với những nhà dân chủ hiện nay, cho rằng muốn có tự do thì phải tạo ra cơ sở vật chất. Trước hết cần giải phóng con người thoát khỏi sự túng thiếu nhục nhã, thoát khỏi sự cần thiết phải đâm chém nhau vì một miếng bánh mì. Tôi nghĩ rằng các nhà khoa học trên kinh nghiệm của bản thân đã cảm nhận được luận điểm này của chủ nghĩa Mác vì hàng nửa năm họ chưa được trả lương và buộc phải đi bốc dỡ hàng trên tàu hỏa.

Có lần trong một cuộc thảo luận như vậy ở Ấn Độ, tôi đã phát biểu: “Những nhà duy vật chúng tôi cho rằng cái cơ bản- đó là cái vật chất, nhưng cái chủ yếu- đó là cái tinh thần” và sau đó tôi trích dẫn lời của Ramakrishna: “Đừng nói về tình yêu đối với người anh em của mình mà hãy thực hiện lòng yêu thương ấy đi!”.

Hiện nay người ta cố ra sức nhồi nhét cho chúng ta rằng cơ sở của tự do và độc lập là chế độ tư hữu. Bởi thế cho nên tôi mới xin được nói rõ rằng đức chúa Giê-su không có một chút tài sản riêng nào ngoài tấm áo choàng mà Người mang trên mình, còn toàn bộ tài sản của thánh Gan-đi là một mảnh vải che thân, song không thể hình dung được những nhân cách tự do nào hơn thế. Chế độ tư hữu nói chung không phù hợp với sự giải phóng tinh thần và bởi vậy nó xa lạ với mọi thứ tôn giáo chân chính. Trong cuốn sách Kinh “Bha-ga-vát Ghi-te” của những người theo đạo Hin-đu có đoạn viết: “Người nào được giải thoát khỏi tính đố kỵ, sự tức giận, khỏi của cải, khỏi bản thân khái niệm “của tôi” thì người đó sẵn sàng trở thành người Bàlamôn.” Hoặc trong kinh Phúc âm có nói: “Hỡi những người giàu có, thật đau khổ cho các ngươi bởi vì các người đã có nguồn an ủi của mình”.

Nói chung, tất cả những người lương thiện, dù đó là đức Phật, đức chúa Giê-su hay Lê-nin, đều hiểu tài sản một cách giống nhau và quan điểm của những bậc vĩ nhân này mâu thuẫn gay gắt với thứ đạo lý trục lợi mà hiện nay người ta đang bứng trồng từ phương Tây sang mảnh đất Nga.

Tôi thích nhắc lại câu nói “Nước Chúa ở trong lòng chúng ta” bởi lẽ tự do là trạng thái nội tại của con người, ngay cả khi nó chịu sức ép bên ngoài nhưng không phản bội lại chính kiến của mình, niềm tin của mình...

LÊ SƠN giới thiệu và dịch
(141/11-00)



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).

  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.