“Thế giới tìm thấy” trong tập thơ “Huyền thoại Cửa Tùng” của Ngô Minh

10:13 07/09/2009
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

Nhà thơ Ngô Minh (Ảnh: nhavanhue.org.vn)

Vậy thì Ngô Minh đâu còn là “một nhà thơ trẻ có triển vọng” để cần đến tôi viết đôi lời giới thiệu với độc giả? Thế nhưng xin thú nhận rằng, tôi đã thật sự xúc động và vui mừng xiết bao khi được bày tỏ đôi lời trước bạn bè quen biết về tập thơ thứ mười này của Ngô Minh. Vì một lẽ giản đơn nhưng hiếm có rằng đây là một tập thơ thuần tuý về đề tài Quảng Trị, mảnh đất chôn rau cắt rốn của tôi và cũng là đất quê ngoại của Ngô Minh, hơn nữa là mảnh đất chiến trường nóng bỏng của cả hai chúng tôi.

Gần 30 năm chiến tranh đã trôi qua, nhưng không hiểu tại sao sự vật đối với tôi lại gần gũi thế, và những kỷ niệm đối với tôi lại nóng bỏng thế, tươi mới như không thuộc về quá khứ, và trĩu nặng tâm hồn như một cái gì thuộc về vĩnh cửu.

Ở những người đã đi qua kháng chiến như chúng tôi hình như đã hình thành một con người cảm nghĩ riêng để xúc động dễ dàng trước những cái tưởng như phù phiếm đối với chuyện cơm gạo áo tiền của ngày hôm nay. Quảng Trị với hai chúng tôi là một mảnh “đất thánh” như vậy của đời người, hoặc nói quá đi một chút, là nguồn suối trường tồn của văn học.

Nhưng vào thời kỳ tôi có mặt ở đó, mặt đất Quảng Trị gần như trơ trụi không còn gì, chỉ còn những dáng người đi lênh khênh ở chân trời. Dưới tác động của một cuộc chiến quá dữ dằn, mảnh đất quê tôi đã chết theo kiểu một kẻ bị ám sát; đến nỗi ngay ngày đầu của cuộc chiến, tôi đã trở lại tìm làng tôi trong một đám cỏ dại mịt mù. Tôi cứ ngơ ngác nhìn bốn phía xem làng tôi ở đâu. Nào ngờ trong cỏ dưới bàn chân tôi là hai chữ “Hoàng tộc” của chiếc cổng gạch tôi vẫn ngồi chơi những ngày thơ ấu.Thú thật là không có nơi nào trên trái đất đã khiến tôi thèm gọi tên một làng như ở Quảng Trị, vì ở đấy không còn tồn tại bất cứ dấu vết nào của những ngôi làng xanh biếc ngày xưa. Tất cả đã lặn chìm dưới mặt đất. Về Quảng Trị trong những ngày tháng bây giờ, người ta gặp nhiều những nắng, gió, cát, sóng biển, cơn khát và những ngôi mộ gió với những nén nhang đỏ bập bùng trong đêm tối, dành để tưởng nhớ những người đi không về; cũng đầy những căn nhà không bao giờ đóng cửa, như đang chờ một ai đó đang bước vào ngõ. Ngô Minh đã bắt gặp những “vật ngoài hành tinh” ấy, bằng kinh nghiệm đau đớn của một người lính và bằng độ nhạy cảm của một nhà thơ. Anh không ngớt nhớ lại những đồng đội Quảng Trị đã nằm lại trong lòng đất Miền Đông Nam Bộ, ngửi thấy hơi hướm quen thân của bạn bè trong mùi áo lính sau những đêm ngủ hầm nằm úp thìa vào nhau, trong vẻ “quê mùa” chất phác của giọng nói: “Ai ngờ dưới tro những câu chuyện trạng/ Lại lên xanh lấp lánh mắt cười”  Tính tình của Ngô Minh, tôi biết quá, rất là chân chất, khí khái, giống như đúc những điều anh kể trong “thế giới” Quảng Trị của anh.

Tôi còn nhớ một tuyển tập thi văn của Quảng Trị có tên là “Đất Kim Cương”. Tôi cho rằng đó là một cái tên khái quát rất giỏi; và nghĩ rằng, nếu đào lên, ta sẽ gặp trong lòng đất không phải là vàng mà là kim cương. Quả thật không nơi đâu mà những con người “chân quê” đã biết sống bản chất đến như vậy!

Vì lẽ đó,tập thơ này của Ngô Minh cuốn hút tôi không ngờ, thức dậy trong tôi những suy tưởng hầu như không mấy ai còn nghĩ tới nữa, giữa thế giới thị trường bây giờ. Xin chân thành cảm ơn nhà thơ, đã một lần thổ lộ với tôi những bí mật tận đáy lòng, trên những trang sách đầy ắp “chất Quảng Trị” này!

Huế 22-7-2004
H.P.N.T
(187/09-04)


----------------------
*
Huyền thoại Cửa Tùng - NXB Thuận Hoá  2004


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)