VÕ VINH QUANG
Trong nỗ lực phục dựng các di tích đặc biệt trong quần thể di tích Cố đô Huế, vừa qua, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô đã đầu tư 24,8 tỷ đồng trùng tu di tích lầu Tàng Thư. Đây là một tín hiệu Cực kỳ đáng quý, có tác dụng không nhỏ đối với việc xiển dương vị thế của vùng đất Cố đô cũng như góp phần giáo dục truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc.
Lầu Tàng Thư đang phục dựng - Ảnh: khamphahue
Hòa chung niềm hân hoan chờ đợi công trình độc đáo này hoàn thành, chúng tôi cũng muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình cho việc tìm hiểu về nguồn gốc của lầu Tàng Thư. Việc phát hiện, dịch thuật và công bố bản văn bia Tàng Thư lâu ký không nằm ngoài mục đích đó.
1. Vài nét về Lầu Tàng Thư
Việc lưu trữ tư liệu thành văn trên nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa, địa bạ, địa chí… của Việt Nam từ xưa rất được các triều đại quân chủ quan tâm mạnh mẽ. Trong đó, triều Nguyễn là vương triều có công sức rất lớn trong quá trình gìn giữ thư tịch văn hiến của dân tộc. Dưới triều Nguyễn, không ít thư viện từ trung ương đến địa phương được hình thành và ngày càng lớn mạnh, điển hình như Quốc Sử quán (1821), Tàng Thư lâu (1825), Đông Các (thư viện Nội Các, 1826), Tụ Khuê thư lâu (1852), Tàng Bản đường (1857), Tân Thư viện (1909), Bảo Đại thư viện (1923), Thư viện Viện Cổ học, thư viện của Hội Đô thành hiếu cổ, Phúc Giang thư viện (Thư viện của Dòng họ Nguyễn Huy - Trường Lưu), Long Cương thư viện (Thư viện của gia đình Cao Xuân Dục)… “Trong số các thư viện, kho lưu trữ kể trên, Tàng Thơ lâu giữ một vai trò đặc biệt. Theo một quyển thư mục nhan đề “Tàng Thư Lâu bạ tịch” viết năm 1907, đây là nơi cất giữ, bảo quản các văn kiện của các bộ: Lại, Hình, Lễ, Công, Học… đã được thực hiện từ thời Gia Long trở đi; những hiệp ước ký kết với Pháp về đất đai, quyền cai trị tại Bắc, Trung, Nam; Các tài liệu ngoại giao với triều đại Trung Quốc, hồ sơ các lễ tấn phong của các vua Tàu cho các vua Việt thời đó… Ngoài ra, trong kho còn có nhiều bản thảo sách Nho, Y, Lý, Số; các bộ Quốc sử, cùng rất nhiều bản gỗ (mộc bản) in các tài liệu nói trên… Trước năm 1945, chỉ tính số sổ địa bạ của Bộ Hội thời Gia Long và Minh Mạng ở đây đã lưu trữ đến 12000 tập”(1). Như thế, có thể thấy rằng Tàng Thư lâu là một trong những Thư viện cấp Quốc gia có vị thế cực kỳ đặc biệt, với những giá trị đặc sắc và độc đáo về lịch sử, văn hóa.
Theo Đại Nam nhất thống chí, Tàng Thư lâu “ở địa phận phường Phong Doanh và phía đông hồ Tĩnh Tâm, trong Kinh thành, dựng từ năm Minh Mệnh thứ 6. Thể chế: lầu xây dựng bằng gạch, tầng trên 7 gian 2 chái, tầng dưới 12 gian, xung quanh xây lan can, bốn mặt là hồ vuông, gọi là hồ Học Hải, phía tây hồ bắc cầu, để ra vào. Phàm sổ sách các năm trước của các nha môn, lục bộ đều cất ở đấy”(2).
Hình ảnh về Tàng Thư lâu cũng từng được người Pháp đương thời miêu tả như Michel de Chaigneau (khoảng 1825 - 1826) viết trong cuốn Hồi ký Souvernirs de Hué (Những kỷ niệm về Huế)(3).
Sau các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ cho đến nay, lầu Tàng Thư đã mất đi vị thế của một trung tâm lưu trữ đặc biệt, khiến cảnh quan kiến trúc ngày càng xuống cấp và không ít lần bị sử dụng với những chức năng, mục đích khác.
Gần đây, nhờ sự đẩy mạnh khôi phục các di tích kiến trúc trong quần thể di tích Cố đô, Tàng Thư lâu cuối cùng cũng đã được xúc tiến phục dựng. Đây là điều đáng trân trọng, đáp ứng được lòng mong mỏi của toàn dân.
2. Về văn bia Tàng Thư lâu ký
Trong quá trình tìm hiểu về thư tịch hiện tồn của Thừa Thiên Huế, chúng tôi tình cờ phát hiện được thác bản Tàng Thư lâu ký, ký hiệu: No.5672 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Văn bia có hình dáng đặc trưng của mỹ thuật triều Nguyễn, với trán bia được trang trí bằng hình mặt trời viền bằng đao lửa, xung quanh bao bọc bằng hình những đám mây cách điệu. Diềm bia được chạm trổ dây leo hoa lá sống động; lòng trong thân bia là bài ký, nét chữ chân phương, rõ ràng điêu luyện. Bài ký có 11 dòng, dòng ít nhất 3 chữ, nhiều nhất 24 chữ. Văn bia được soạn vào tháng 10 năm Mậu Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826) nhưng không ghi tên người soạn. Nhận thấy đây là thác bản của văn bia Tàng Thư lâu ký rất độc đáo, có thể cung cấp thêm phần tư liệu về sự ra đời của lầu Tàng Thư, cũng như hiểu thêm sự quan tâm sâu sát và công lao to lớn của vua Minh Mạng đối với mọi mặt đời sống chính trị, xã hội Đại Việt, chúng tôi xin được chép lại nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa tác phẩm ấy.
Nguyên văn:
藏書樓記
臣聞: 國家冊籍所以垂憲來, 茲必有總滙積 儲之, 處以謹避水火,乃可傳諸久遠, 而著為典 常。奉我皇上萬幾之暇, 厪念及此特命起樓于 皇城之東北, 砌築並用磚石, 周圍浚湖。湖之外 繚以垣墻支帑項何啻鉅萬。落成之後, 敕有司檢 撰典籍蠲吉, 舁藏於樓之。上層二, 以闡鴻猷於 賁飭留永鑑於豐詒。樓為藏書建也, 因奉以命名 云。
明命柒年歲次丙戌孟冬月穀旦
Phiên âm: TÀNG THƯ LÂU KÝ
Thần văn: quốc gia sách tịch sở dĩ thùy hiến lai, tư tất hữu tổng hối tích trữ chi, xử dĩ cẩn tị thủy hỏa nãi khả truyền chư cửu viễn, nhi trứ vi điển thường. Phụng ngã hoàng thượng vạn kỷ chi hạ, cần niệm cập thử đặc mệnh khởi lâu vu hoàng thành chi đông bắc, thế trúc tịnh dụng chuyên thạch, chu vi tuấn hồ. Hồ chi ngoại, liêu dĩ viên tường chi thảng hạng hà thí cự vạn. Lạc thành chi hậu, sắc hữu ty kiểm soạn điển tịch quyên cát dư tàng ư lâu chi. Thượng tằng nhị, dĩ xiển hồng du ư bí sức, lưu vĩnh giám ư phong di. Lâu vị tàng thư kiến dã, nhân phụng dĩ mệnh danh vân.
Minh Mệnh thất niên, tuế thứ Bính Tuất mạnh đông nguyệt cốc đán.
Dịch nghĩa: BÀI KÝ VỀ LẦU TÀNG THƯ
Thần nghe rằng: Sách vở thư tịch của quốc gia sở dĩ được ban bố đến nay, tất có sự tích chứa tổng hợp ở nhiều nguồn, rồi cẩn thận tránh xa nước lửa, có thể truyền đến mai sau, mà ghi ghép rõ làm điển thường(4). Vâng theo ý của Hoàng thượng ta bất kỳ lúc nào cũng thường trực lòng mong muốn xây lầu tàng thư, nay ngài đặc biệt ban lệnh xây lầu ở phía đông bắc của hoàng thành, đắp đất tạo nền và dùng gạch đá dựng lên, bao bọc xung quanh là hồ sâu. Bao bọc bên ngoài hồ là các bức tường thấp, các khoảng kho chứa ngàn vạn quyển. Sau khi công việc xây cất hoàn thành, Hoàng thượng bèn sắc lệnh cho bọn chức trách kiểm kê, biên soạn sách vở kinh điển sạch đẹp, khiêng đến chứa vào hai dãy tầng lầu, để xiển dương rực rỡ đạo thánh cao vời, lưu giữ “tấm gương soi” tốt lành, sáng ngời muôn thuở. Lầu được dùng để cất giữ thư tịch, nhân đó vâng mệnh là gọi tên (Tàng Thư lâu).
Ngày tốt tháng 10 năm Bính Tuất, niên hiệu Minh Mạng thứ 7 (1826).
*
Bài bia ký về lầu tàng thư được biên soạn và khắc đá dựng lên vào cuối năm Minh Mạng thứ 7 (1826), công trình này cùng một loạt công trình trong và ngoài kinh thành như sông Ngự Hà, cầu Khánh Ninh… đã liên tiếp được xây dựng hoàn thành và khắc bài ký trên đá bia để lại. Đấy là dấu ấn quan trọng, thể hiện tầm nhìn bao quát mọi mặt của bậc quân vương kỳ tài Minh Mạng. Do vậy, văn bia trên vừa góp phần khẳng định giá trị của lầu Tàng Thư, lại vừa cung cấp thêm một tư liệu quan trọng cho việc tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp hiển hách của vị vua thứ 2 triều Nguyễn.
Mặc dù tấm văn bia hiện nay không thể tìm được, song với thác bản trên, nếu có điều thuận lợi, các ban ngành chức năng có thể dùng nó để khắc bản lại và giữ nguyên vẹn kiểu cách vốn có của tấm văn bia cũ, để cùng khẳng định vị thế đặc biệt của lầu Tàng Thư đối với mọi người, cũng như góp phần giáo dục truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc chúng ta. Điều đấy rất phù hợp với tinh thần “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Huế” và đóng góp thiết thực cho công cuộc “xây dựng nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của nước nhà.
V.V.Q
(SH308/10-14)
.............................................
(1) Phan Thanh Hải - Lê Thị Toán (2007), “Tàng Thơ lâu và dự án xây dựng thư viện Cố đô”, Di sản văn hóa Huế - nghiên cứu và bảo tồn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, tr.299.
(2) Quốc Sử quán triều Nguyễn (Viện Sử học dịch, 2007), Đại Nam Nhất thống chí tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, tr.59.
(3) Câu chuyện này được Nguyễn Đình Hòe và L.Cadière viết lại trong mục LA BIBLIOTHÈQUE DE ARCHIVES (Thư viện lưu trữ) của bài “Quelques coins de la citadelle de Hué”, Tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué, No .3, 1922, 198-199.P
(4) Điển thường 典常: tức thường đạo 常道, thường pháp 常法: các đạp lý, điển lệ, pháp độ… thường hằng, được mọi người dùng làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Tiết 4, chương VIII, mục Hệ Từ Hạ trong Kinh Dịch có câu “初 率 其 辭,而 揆 其 方,既 有 典 常”. Sơ suất kỳ từ nhi quĩ kỳ phương. Ký hữu điển thường; nghĩa là: ban đầu noi theo các lời nói [đinh điển, chân lý] ấy mà tìm hiểu sâu sắc ý nghĩa của nó [nắm được mọi lý bao quát của nó] ấy gọi là điển thường. Như vậy, điển thường là chân lý kinh điển thường hằng trong vũ trụ này.
Mỗi dịp đầu Xuân mới, các làng xoan cổ ở Phú Thọ lại có dịp hội tụ hát những làn điệu mượt mà, đằm thắm, thấm đậm tình đất, tình người đất Tổ Vua Hùng.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), có sáu lễ hội truyền thống đã được bổ sung vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
LTS: Đầu tháng 12-2016, tại phiên họp Ủy ban liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO, di sản thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã được UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Tại Việt Nam, có luồng ý kiến cho rằng, những biến tướng từ tín ngưỡng này đang gây ảnh hưởng không nhỏ đời sống văn hóa tâm linh của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ là gì và tại sao một bộ phận người Việt có cái nhìn như vậy?
GS Ngô Đức Thịnh cho rằng đạo Mẫu có những vị thánh được “dệt” từ anh hùng trong lịch sử. Bằng cách đó, đạo Mẫu cũng thể hiện chủ nghĩa yêu nước.
Ngày 3/12, đại diện của khoảng 40 nước nhóm họp tại Abu Dahabi đã thông qua kế hoạch thành lập một quỹ bảo vệ các di sản trong các khu vực có chiến tranh và một mạng lưới cất giữ an toàn cho các tác phẩm nghệ thuật đang gặp nguy hiểm.
Theo thông tin từ Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt đã chính thức được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Ngày 29.11, Sở VH-TT TP.Đà Nẵng cho biết Nghệ thuật hô/hát bài chòi dân gian ở Đà Nẵng vừa được Bộ VH-TT-DL công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Mới đây, Bộ tem “Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại” đã chính thức được phát hành và có thời hạn cung ứng trên mạng bưu chính công cộng đến ngày 30/6/2018.
Trước khi cho phóng viên Thanh Niên chụp ảnh chiếc lư đồng, ông Hà Xuân Út, Trưởng làng La Chữ (P.Hương Chữ, TX.Hương Trà, Thừa Thiên-Huế) phải thắp hương xin phép Thành hoàng, bởi chiếc lư được cho là bảo vật rất thiêng của làng.
Di tích lịch sử Văn miếu Trấn Biên (phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa, Đồng Nai) đã chính thức được công nhận là di tích cấp quốc gia (theo Quyết định số 2894/QĐ-BVHTTDL do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện ký).
Kim sách triều Nguyễn chứa đựng nhiều thông tin giá trị về lịch sử văn hóa và nghệ thuật đỉnh cao của các nghệ nhân, thợ thủ công cung đình xưa.
TRẦN VĂN DŨNG
Trong dòng chảy lịch sử hàng trăm năm, Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau để trở thành một trong những loại hình âm nhạc truyền thống đặc sắc của Việt Nam.
Với mục tiêu năm 2016, hát Xoan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới thoát khỏi tình trạng cần được bảo vệ khẩn cấp và chính thức trở thành di sản đại diện của nhân loại, tỉnh Phú Thọ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa hát Xoan.
Trong khi nhiều loại hình âm nhạc truyền thống đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, thì ca Huế vốn là loại hình âm nhạc bác học mang giá trị độc đáo, có sức lan tỏa và ảnh hưởng lớn, lại chỉ mới được Bộ VH-TT-DL công nhận là Di sản phi vật thể quốc gia.
Mộc bản là một trong những di sản quý giá của nền văn hóa dân tộc. Năm 2009, UNESCO đã công nhận mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới (số mộc bản này hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV- Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).
Theo kế hoạch đến cuối năm 2015, tỉnh Phú Thọ sẽ phải đưa Hát Xoan Phú Thọ ra khỏi tình trạng cần bảo vệ khẩn cấp, chính thức đưa hát Xoan trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại.
Xúc động, đầy tính nhân văn và hoàn toàn tương đồng với những giá trị đạo đức của người Việt, lễ Vu lan báo hiếu đang được một số chuyên gia đề nghị tìm hình thức tôn vinh xứng đáng.
Trong hành trình của “Trại hè Việt Nam 2015,” ngày 21/7, Đoàn thanh niên sinh viên kiều bào đã đến với Huế - thành phố văn hóa ASEAN có khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp với sông Hương, núi Ngự cùng đền chùa, thành quách, lăng tẩm cổ kính rêu phong gắn liền với triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam.
LTS: Hiện vật chiếc xe kéo tay vừa được đấu giá thành công và đưa về Huế, đang được trưng bày tại cung Diên Thọ, khu vực sinh hoạt của các hoàng thái hậu triều Nguyễn. Tấm bảng giới thiệu về chiếc xe ghi rõ: “Theo hồ sơ đấu giá, đây là chiếc xe kéo do vua Thành Thái tặng cho mẹ mình là hoàng thái hậu Từ Minh để dạo chơi trong vườn ngự uyển”.
Cuộc hội thảo bảo tồn và phát huy giá trị của hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế vừa được Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế tổ chức trong hai ngày 8 và 9.5, tại TP.Huế.