“Nhật ký trong tù” trên hành trình thơ văn của Bác

08:51 11/03/2011
PHONG LÊGiá Bác không đi Trung Quốc? Hoặc giá Bác không bị bọn Tưởng bắt giam? Hoặc nữa, đã có tập thơ, nhưng năm tháng, chiến tranh, cùng bao nhiêu sự cố khiến cho tập thơ không còn về được Viện bảo tàng cách mạng?

Hình bìa gốc "Ngục trung nhật ký" - Ảnh: wikipedia.org

Từ một số giả định, có thể nêu Nhật ký trong tù có được trong tay chúng ta hôm nay như một sự may mắn ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên, như chính Bác nói: “Các chú không nhắc thì Bác cũng không nhớ đến nữa…” (1)

***

Trở lại một chút tình hình trước khi có tập thơ. Trên hai mươi năm sử dụng “vũ khí của tiếng nói” Bác đã viết bằng nhiều thứ tiếng, trên rất nhiều báo chí, các bài văn thuộc dạng tiểu phẩm, bút chiến, truyện ký, chính luận, thư từ, kêu gọi… Thơ, là thể loại Bác chưa dùng, hoặc nói đúng hơn, còn ít dùng. Bác chỉ làm thơ như một hình thức bổ sung cho văn, để diễn giải nội dung văn xuôi cho dễ nhớ, dễ truyền tụng. Như “Việt Nam yêu cầu ca”, nhằm đưa nội dung tám yêu sách gửi Hội nghị Véc-xay về với đồng bào. Như lời cổ động cho tờ Việt Nam hồn, Bác dự định làm bằng tiếng Việt bên cạnh tờ Le Paria. Hoặc để điểm xuyết vào văn như một hình thức gắn nối, gợi dẫn của truyện chương hồi cũng để cho dễ nhớ, dễ thâu tóm, như những câu lục bát trong Nhật ký chìm tàu.

Hai mươi năm trong niềm trông đợi của người dân Việt Nam, Bác là nhà cách mạng vĩ đại Nguyễn Ái Quốc, là nhà báo, nhà chính luận, chứ chưa là nhà thơ. Ba mươi năm xa tổ quốc, hẳn có biết bao tình huống, bao cảnh ngộ mà một người từng trải và giàu tình cảm lớn như Bác có thể làm thơ. Nhưng thơ - trực tiếp cho công chúng đồng bào, đó là điều, do cách bức về không gian, nên Bác không dễ có hoàn cảnh thực hiện. Còn thơ - cho mình, như một cách ngụ tâm sự, phô diễn tình cảm, thì hoàn cảnh một người cách mạng chứ không phải nhà thơ chuyên nghiệp - hẳn Bác thấy có bao nhiêu việc cần thiết hơn.

Giờ đây đã đến lúc Bác có thể và cấp bách phải về nước. Ở địa đầu tổ quốc, vào ngày lịch sử 8-2-1941, nếu có giây phút đầu tiên, Bác hôn lên nắm đất, thì ở những ngày, những tháng tiếp đó là cảm hứng và non xanh nước biếc quê nhà. Phải nói cảm xúc đó là nồng nàn, nên mới nhanh chóng có được, sau bao năm không làm thơ, hai bài tức cảnh về Pác bó; cùng sau đó ít lâu bài thơ chữ Hán đầu tiên, bài Thượng Sơn, khi cơ quan rời về Lũng Dẽ. Ấy là những bài hiếm hoi ghi nhận được cái phong thái ung dung, thích thảng, như một chút “xả hơi” - nếu được phép nói vậy - sau ba mươi năm bôn tẩu trên hàng chục vạn dặm đường…

Biết bao việc trọng đại của đất nước, của cách mạng đã dồn đến, đang chờ đợi Bác. Trong vị trí Tổng chỉ huy toàn bộ các lực lượng cách mạng của dân tộc, nhằm xốc tới ngày tổng khởi nghĩa, Bác vẫn tiếp tục sử dụng vũ khí tiếng nói. Nhưng tiếng nói đó vào lúc này là ở thư Kính các đồng bào, sách Cách đánh du kích, phép dùng binh, cách huấn luyện cho quân đội, là ở những trang dịch Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô, cùng các diễn ca lịch sử và địa lý nước nhà. Đồng thời, cũng phải đến lúc này, thơ lại đến với Bác như một phương tiện hiệu quả để chuyên chở nội dung cách mạng. Chỉ khoảng hơn một năm, Bác đã làm đến mấy chục bài thơ trong dạng tuyên truyền cổ động để kêu gọi các tầng lớp đồng bào. Người đã viết bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài, tra cứu hàng trăm cuốn sách nơi các trung tâm văn hoá lớn, rồi đây cũng sẽ là người biết cách chọn lời, chọn chữ sao cho đơn giản nhất, để mỗi người dân ít chữ hoặc mù chữ cũng có thể hiểu được. Và do yêu cầu đó nên báo chí càng là phương tiện tích cực để phổ biến thơ văn. Sẽ là văn ngắn gọn ai đọc cũng hiểu; và sẽ là thơ trong các thể dạng dân gian quen thuộc để cho ai nghe cũng nhớ, và lưu truyền.

Thế mà giữa lúc công việc cách mạng hết sức bề bộn, khẩn trương, và niềm tâm nguyện viết cho đồng bào vừa mới thực hiện và có hiệu quả, thì Bác bị bắt. Rồi cuộc hành trình gian khổ, suốt mười bốn tháng trời trên phần đất Quảng Tây Trung Quốc lại sẽ là hoàn cảnh cho ra đời Nhật ký trong tù, với trên một trăm bài thơ chữ Hán.

***

Vậy là có một hoàn cảnh khách quan và chủ quan rất đáng chú ý đã thôi thúc Bác làm thơ vào buổi đầu những năm bốn mươi. Và thơ đã xuất hiện với một độ cao - mấy chục bài thơ và diễn ca bằng tiếng Việt, viết cho đồng bào, và trên trăm bài thơ chữ Hán dường như chủ yếu viết cho mình.

Dễ nhận rõ một điều không bình thường. Đó là cái hoàn cảnh “đòi” Bác phải có thơ, hoặc gợi thi hứng nhiều nhất nơi con người thơ của Bác lại là một hoàn cảnh thật sự căng thẳng và khắc nghiệt. Có thể nói đó là những năm tháng Bác phải sống gian khổ và nguy hiểm nhất. Đã đành lúc này Bác có hạnh phúc được về trong lòng tổ quốc, cùng đồng chí đồng bào trực tiếp chung, lo việc lớn… đã đành cái nhìn của Bác bao giờ cũng là cái nhìn lạc quan, để thấy “cuộc đời cách mạng” với cảnh sáng tối vào ra nơi hang núi, cùng “cháo bẹ rau măng” là “sang”… Nhưng rõ ràng, so với mọi tình cảnh trước đây, dầu là người phụ bếp trên tàu, người quét tuyết ở Luân Đôn, người tìm việc làm nơi ngõ hẻm Công poanh, người rong ruổi trên các trục đường hàng vạn dặm xuyên hai đại lục Âu Á, hoặc người tù của thực dân Anh ở Hương Cảng… thì sự vất vả, thiếu thốn, hiểm nguy lúc này còn có phần hơn.

Rồi sẽ đến với Bác tình cảnh gian truân gấp bội khi sa vào tay bọn Tưởng. Cảm thông với ông Phan Nhuận, muốn có một bản dịch lột tả được tinh thần Nhật ký trong tù, ngày ngày đến ngục Xăng-tê để lấy “không khí”, để có dịp cảm nhận bằng da thịt nỗi khổ của người tù. Nhưng tình cảnh của tù Tưởng thì khó có nơi đâu so sánh được.

Thế nhưng chính trong hoàn cảnh đó, chính vào lúc gian khổ nhất về vật chất, và căng thẳng nhất về tinh thần, Bác lại có thơ. Vậy tình huống gì đã xảy ra ở đây? Tình huống gì đã tạo nên, trong vài mươi tháng trời, sự tuôn chảy dào dạt của cả một nguồn thơ đổ về hai hướng, để rồi dồn tụ vào biển cả thơ ca cách mạng?

***

Hai phương diện có thể xét đến, như là nguyên cớ trực tiếp để hiểu hoàn cảnh thơ đã đến với Bác vào lúc này. Trước hết, đây chính là lúc nhà cách mạng và nhà thơ Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với quần chúng, đồng bào. Người mà tâm trí luôn luôn như chiếc kim địa bàn nhậy bén và kiên định quay trở về dân tộc, người luôn luôn đặt ở hàng đầu phương châm: Viết cho ai? Hẳn sẽ tràn đầy một niềm cảm động và hứng khởi khi có dịp trực tiếp chuyện trò, tâm sự với mọi tầng lớp nhân dân về cái vấn đề sinh tử nhất là giành lại cho họ quyền sống, cơm áo, và tự do.

Và ở một phương diện khác, khi mạch thơ đang tuôn chảy ấy bị ngắt quãng, vì cảnh tù đày; khi sự cách bức với công chúng cụ thể khiến Người không có hoàn cảnh và không còn được tự do trò chuyện… thì một tình thế thơ khác đã xuất hiện. Một tình thế “kép”, vừa phải, “đối phó” hết sức khôn khéo với một ngoại cảnh cực kỳ nguy hiểm, vừa phải “thỏa mãn” nhu cầu phô diễn chân thực những trạng huống mới của cảm xúc, và đối thoại với chính mình. Nói động tác “đối phó” là để chỉ sự vận dụng sách lược đối với các loại kẻ thù, là nói nhãn giới của nhà chính trị. Nhưng điều đó lại không được gây cản trở cho yêu cầu phô diễn chân thực thế giới nội tâm, và cảm xúc của nhà thơ. Và cả hai, như ta thấy, đã tìm được sự hòa hợp nơi Nhật ký trong tù.

Sự chọn dùng ngôn ngữ Hán Việt cùng thơ luật Đường khiến cho ta nghĩ hẳn chắc Bác không nhằm viết cho một công chúng cụ thể nào. Và đó là điều khác trước, cũng có thể là một “ngoại lệ” trong đời viết của Người. Nhưng không nhằm vào một công chúng cụ thể, không có nghĩa là thơ. Người không gắn với một bối cảnh đặc biệt của thời cuộc. Nếu đối với bản thân Bác - người tù, đây là lúc mọi nỗi gian truân, hiểm nguy cùng lúc dồn đến, nó là phần “hiện thực” không thể không vang vọng, không lưu lại dấu ấn trong dạng nhật ký - thơ ; thì đối với đất nước, đây lại là lúc tình hình đang chuyển biến từng ngày để hướng vào cao trào cách mạng; để nhanh chóng giành đoạt thời cơ khởi nghĩa mà Người từng tiên đoán từ cuối năm 1941, trong dòng cuối diễn ca Lịch sử nước ta.

Chính thời cơ cách mạng đang nhen nhóm, đang trở thành hiện thực, vốn là kết quả của cả một khoa học tuyên truyền, vận động, tổ chức cách mạng hết sức vĩ đại mà Đảng ta đã tiến hành, hẳn là nền cảnh, là niềm thôi thúc, góp phần giúp ta cắt nghĩa nguồn thơ lớn của Nhật ký trong tù.

Người tù tác giả hơn trăm bài thơ ra đời trong khoảng thời gian và không gian chật hẹp kia, cũng chính là Người đã góp công lớn nhất, đã dành trọn ba mươi năm, đi khắp chân trời góc biển, để tìm kiếm và tạo dựng nên tình thế cách mạng đã sáng bừng lên ở chân trời quê hương.

Người tù - người đang phải chịu mọi sự đày ải, người đang trải những tâm trạng bực bội, bất lực, buồn thương, xót xa, cay đắng, và có lúc bi thảm nữa, cũng là người đang tỏa rộng lòng mình để đón nhận mọi tín hiệu đến từ phía ánh sáng của ngày mới; và do vậy sao không hứng khởi, lạc quan, tràn đầy niềm sinh thú, trước viễn cảnh của việc trồng cây sắp đến ngày hái quả.

***

Như vậy đối với Bác, tình huống vào tù lúc này không phải là sự bó tay, mà chỉ là một sự chuyển đổi môi trường hành động.

Vẫn người cách mạng, nhưng hoàn cảnh đã thay đổi.

Nhưng trong sự thay đổi của hoàn cảnh, con người của ý chí, nghị lực và niềm tin vẫn là một dấu hiệu nhất quán.

Khỏi phải nói lại tất cả sự đầy đọa mà chế độ nhà tù Tưởng đã dồn cho Bác: từ cảnh muỗi rệp, ghẻ lở, ăn đói mặc rét, bị giải tới giải lui trên ba chục nhà lao của huyện xã, rồi ốm đau bệnh tật, sức khỏe suy kiệt… mà một phần nhỏ, nhờ vào hình thức thơ - nhật ký ta có thể thấy qua Nhật ký trong tù.

Quá hiếm có tập thơ nào nói được nhiều “sự thật” đến thế. Sự thật về một trạng huống xã hội, và sự thật về nỗi đầy đọa cho một con người.

Nhưng dường như “sự thật” đó không phải là điều mà tập thơ muốn đạt, và tác giả muốn khai thác cặn kẽ. Nói cách khác, chất “nhật ký” ghi việc hàng ngày không chèn lấn chất thơ. Phần sâu đậm vẫn là toát lên từ một thế giới khác.

Sau cận cảnh:

…Bị trói chân tay

hoặc:

Lủng lẳng chân treo tựa giáo hình

là bối cảnh:

Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
                       
            (Trên đường)

và:

Làng xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh

(Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh)

Một thế đối xứng thơ quen thuộc như vậy có thể tìm thấy ở nhiều bài trong Nhật ký trong tù.

Tôi không muốn nói cái khía lãng mạn và lạc quan cách mạng của nội dung, toát lên từ sự tương phản như trên, có ở rất nhiều bài thơ mà ai cũng rõ. Tôi muốn nói: một hoàn cảnh sống dày vò, đày đọa con người đến như Bác phải chịu đựng, vẫn không cản Bác làm thơ. Và đó chính là biểu hiện của ý chí tự do, của sức mạnh tinh thần, của khả năng làm chủ ngoại cảnh và làm chủ bản thân cực kỳ mạnh mẽ nơi Bác. Bác làm thơ, vì đó là điều mà hoàn cảnh tù - dẫu tàn bạo đến đâu - cũng không ngăn cản Bác được; và vì ở vào hoàn cảnh tù, người tù không có thể làm gì khác được ngoài làm thơ. Có cần nói thêm: trong hình thức nhật ký - thơ, thì nội dung nhật ký, ghi việc hàng ngày, là điều một số người cách mạng đã làm. Nhưng cho nó một hình thức thơ, và tạo được chất thơ thực sự cho nó, trong một hoàn cảnh như của Bác - có khác với nhiều chí sĩ cách mạng trước đây - thì quả là điều không dễ.

***

Nhưng những khổ ải vật chất, dẫu lớn, vẫn không phải là chuyện dày vò Bác nhiều nhất. Nỗi khổ chính ở Bác vẫn là sự mất tự do, ở sự cầm tù, trong khi tình thế cách mạng đang cần sự có mặt của mình:

Cay đắng chi bằng mất tự do
(Cảnh binh khiêng lợn cùng đi)

Chính nỗi khổ đó mới là nguyên nhân chính, tạo nên những câu thơ lúc bực dọc, cáu kỉnh:

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận
Hoàn cầu lửa rực bốc trời xanh
Trong ngục người nhàn, nhàn quá đỗi
Chí cao mà chẳng đáng đồng trinh
                                    (Buồn bực)

Lúc da diết, ưu tư:

Ngày đi tiễn bạn đến bên sông
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng
Nay gặt đã xong, cày đã khắp
Quê người tôi vẫn chốn lao lung

                        (Nhớ bạn)

Thậm chí có lúc bi thảm:

Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa lệ thành thơ tả nỗi này
.
                        (Đêm thu)

Giữa bao nhiêu tâm trạng trái ngược mâu thuẫn như vậy. Bác vẫn làm thơ. Và đó tiếp tục là điều lạ. Lo nghĩ bao nhiêu việc lớn, nếu được tự do như trước, hoặc ngay lúc này, nếu được tự do, hẳn Bác sẽ tiếp tục làm thơ như một hành động hướng ngoại, hướng về quần chúng đông đảo, vì đó mới chính là công việc cấp bách của cách mạng; là điều hợp với sở nguyện của Bác, sau bao năm mong đợi, chứ không phải là tình trạng “nhàn rỗi”.

Ngày dài ngâm ngợi cho khuây…

Thế nhưng, nếu vì hoàn cảnh không may mà người cách mạng bị tù tội và buộc chỉ có thể làm thơ thôi, như là một hành động tự do không ai ngăn cấm được, thì nội dung thơ sẽ phải là sự tâm nguyện, sự tiếp tục của nghị lực và ý chí, nhằm khẳng định nhân cách, bất chấp hoàn cảnh tàn bạo của nhà tù. Thay vì những bài thơ viết cho đồng bào, Bác sẽ có thơ như một cách ngụ tâm sự. Bên cạnh những bài nói nỗi bực dọc hoặc ưu tư, do sự bất lực, bị “trói tay chân”, cả nghĩa bóng và nghĩa đen, sẽ có những bài Bác làm như một cách tự nhắc nhủ, tự động viên:

Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
            (Nghe tiếng giã gạo)

như một sự đúc rút kinh nghiệm:

Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ
Kiên quyết không ngưng thế tiến công
           
            (Học đánh cờ)

Tôi không nghĩ đó là những bài, những câu Bác làm nhằm giáo dục người khác; những bài, những câu mà hôm nay hiển nhiên đã trở thành cẩm nang cho sự tu dưỡng của mọi chúng ta, đã thành nguồn sức mạnh cho cả một nền thơ chiến đấu, một nền thơ có thép Việt Nam. Bác chỉ nhằm viết cho mình. Vì đối với Bác, cũng như đối với bất cứ nhà cách mạng và nhà thơ chân chính nào, thơ là một hình thức hoạt động của cảm xúc và trí tuệ, thơ là sự thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người hành động. Ở hoàn cảnh bị tù đày, nhu cầu hành động có khi chỉ là một cuộc độc thoại bên trong, một cuộc đối thoại với chính mình. Người cách mạng, ngay cả những đại diện tuyệt vời như Bác cũng luôn luôn đặt yêu cầu tu dưỡng, tự vấn, tự răn mình. Không có những phẩm chất tự nhiên mà có. Hoặc có một lần rồi nguyên vẹn mãi:

Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên

                        (Nửa đêm)

***

Sau 14 tháng trời bị đày ải, Bác mới được trả lại tự do; và phải hơn một năm nữa Bác mới về tới nước. Biết bao chuyện bận rộn, căng thẳng để chuẩn bị cho thời cơ giải phóng “chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa” (2) khiến Bác đã quên tập thơ. Cùng với công tác lãnh đạo, tổ chức, tuyên truyền cách mạng, Bác vẫn tiếp tục viết, nhưng là viết các chỉ thị, viết Lời kêu gọi tổng khởi nghĩa, và tiếp đó, bắt tay vào soạn thảo Tuyên ngôn độc lập.

Như vậy Nhật ký trong tù có sự hình thành và tuổi thọ 14 tháng, rồi lại tiếp tục cuộc sống im lặng của nó, vì chắc tác giả của hàng trăm bài thơ kia không hề nghĩ đó là áng văn cần đưa cho mọi người; và vì, như tác giả nói, trong một vài dịp sau này, đó là một cách để “tiêu khiển”, hoặc “giết thời gian”.

Một tập thơ dường như ngẫu nhiên mà ra đời, rồi ngẫu nhiên bị quên; thế mà ngót hai mươi năm sau, lại gây một sự kiện vang dội. Một sự kiện không ngẫu nhiên. Biết bao người, trong đó có không ít nhà văn hóa lớn, hoặc nghệ sĩ tên tuổi ở trong nước và trên thế giới đã nói về giá trị lớn của tập thơ. Và giờ đây, giá thử nếu thiếu đi Nhật ký trong tù, nếu vì một sự sắp xếp nào khác của lịch sử, để không có tập thơ, hẳn ta sẽ thấy một sự trống thiếu rõ rệt biết chừng nào. Nếu hình dung cả cuộc đời như một dòng sông lớn chảy từ nguồn ra biển, thì Nhật ký trong tù phải chăng có thể xem là một khúc sông lặng trước lúc đổ ra đại dương. Một khúc lặng, có xoáy ngầm, nhưng trong suốt tận đáy, để cho ta soi mà nhận ra chân dung Bác, và qua Bác, mà nhận ra gương mặt dân tộc.

Để thấy như một bạn thơ nước ngoài, với Nhật ký trong tù “không có một đỉnh cao nào mà con người lại không vươn tới được (3). Ba mươi năm Bác xa tổ quốc, trong thân phận người dân một đất nước còn bị nô lệ, và trong những gian lao người cách mạng phải nếm trải, phải thay tên đổi họ hàng trăm lần, Bác không muốn để lại dấu vết gì về mình. Ở tất cả các bài báo, thư từ, tiểu phẩm… Bác không hề có ý nghĩ làm văn chương càng không có chủ định miêu tả hoặc tự họa… Thế rồi có lúc, Bác đã làm việc đó, một cách không có chủ định, không có chuẩn bị… Có điều, vấn đề quan trọng không phải Bác đã là nhà thơ lớn từ năm 1943 khi có Nhật ký trong tù, hoặc phải chờ đến năm 1960, khi tập thơ được phát hiện. Đối với Bác, trước sau Bác đều khéo léo không nhận mình là nhà thơ. Điều quan trọng là, với tất cả phẩm chất của một tác phẩm nghệ thuật lớn Nhật ký trong tù đã sống cuộc sống xứng đáng của nó, đã gieo trồng được những giá trị văn minh và nhân đạo cao nhất vào đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại tiến bộ, từ mấy chục năm qua. Và Nhật ký trong tù hôm nay vẫn tiếp tục công việc gieo trồng đó một cách rực rỡ, như chính tên tuổi và sự nghiệp của người đã sinh thành ra nó, hay nói cho phù hợp hơn, đã “hái lượm” được nó, như một sự ngẫu nhiên trên lộ trình gian nan và vĩ đại của đời mình.

P.L.
(13/6-85)



-----------------

(1). T.Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện; NXB Sự thật; 1976; tr.83.

(2). Thư gửi đồng bào toàn quốc, tháng 10-1944, Hồ Chí Minh tuyển tập, Nxb Sự thật; 1980; tr.344.

(3). Phôlích Pita Rôdri ghêt : Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh; Nxb Khoa học xã hội; 1979; tr.545.








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.