Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
(Ảnh: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật)
Một buổi chiều đầu Thu sau gần bốn thập kỷ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, họ gặp lại nhau trong buổi ra mắt tập sách “Nhật ký chiến trường” của người đồng đội Nguyễn Tiến Bình tại Hà Nội. Những bàn tay nắm chặt, những ánh mắt rưng rưng, cảm xúc nghẹn ngào đan xen trong những câu chuyện, ký ức còn đọng lại.
“Nhật ký chiến trường” được tác giả viết trong hai cuốn sổ tay trong thời gian từ năm 1970-1975, từ khi tác giả lên đường ra trận cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong số đó, gần một nửa số trang viết được tác giả ghi chép khi hoạt động ở chiến trường Phnôm Pênh (Campuchia).
“Dù có ngã xuống trên đường hành quân thì đầu cũng quay về hướng Nam Tổ quốc (…). Dù có phải là người ngã xuống cuối cùng trước giờ ngừng bắn, chúng con cũng sẵn sàng vì chúng con hiểu rõ hơn ai hết: Không có chiến công nào không có mất mát, hy sinh. Những điều mà vì chúng, chúng con phải chấp nhận hy sinh, phải chịu đựng mất mát, đau thương hôm nay sẽ góp phần cùng cả nước giành lại cuộc sống yên vui, hạnh phúc vĩnh viễn cho dân tộc.”
Trung tướng Nguyễn Tiến Bình đã viết như vậy trong cuốn “Nhật ký chiến trường” của mình.
|
Đồng đội kể lại những câu chuyện về Trung tướng Nguyễn Tiến Bình trong buổi ra mắt sách (Ảnh: An Ngọc/Vietnam+) |
Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Thế Kỷ bày tỏ: “Cuốn ‘Nhật ký chiến trường’ vừa thể hiện những nét chung của thanh niên Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ vừa cho thấy rõ cá tính, hoàn cảnh, tâm trạng, tình cảm của tác giả. Ở đó, người đọc sẽ thấy tình yêu nước nồng nàn, tình yêu quê hương, gia đình tha thiết, tình cảm với mẹ cha, anh em, đồng đội sâu sắc của người chiến sỹ.”
“Vượt lên trên tất cả là một nhân cách, một tâm hồn, một bản lĩnh cao đẹp. Không có những con người như thế, không có một thế hệ như thế, dân tộc Việt Nam đã không thể vượt qua những năm tháng gian khổ, ác liệt để giành chiến thắng,” ông Nguyễn Thế Kỷ nhấn mạnh.
Có mặt tại buổi ra mắt sách, cựu chiến binh Phạm Đức Thăng (Đoàn 367 đặc công-biệt động) không giấu được niềm xúc động. “Cầm cuốn sách trên tay, tôi có cảm tưởng những trận đánh, giờ phút chiến thắng như mới diễn ra ngày hôm quá - một thứ cảm xúc lâng lâng khó tả,” ông Thăng nghẹn giọng.
Lật giở từng trang sách, người cựu chiến binh ấy bảo, những câu chuyện Trung tướng Nguyễn Tiến Bình ghi lại là cảm xúc của riêng tác giả nhưng cũng là ký ức về những ngày tháng đẹp nhất của thế hệ ông - thế hệ thanh niên Việt Nam “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước.”
Tập sách do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật phát hành tháng 8/2014.
Trung tướng Nguyễn Tiến Bình (1950-2013) quê quán tại phường Đáp Cầu (thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Ông nguyên là Chánh văn phòng Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (1997-2005), Chính ủy Học viện Quốc phòng (2005-2010)… Năm 1970, ông được biên chế về Đoàn 367 đặc công-biệt động thuộc Bộ Tham mưu Miền (B2) - Quân giải phóng miền Nam. Trong thời gian từ 1970-1973, ông đã trực tiếp chiến đấu trong các hướng tác nghiệp độc lập trên chiến trường Phnôm Pênh (Campuchia). Năm 1973, ông cùng đồng đội trở về Tổ quốc, tiếp tục chiến đấu trên chiến trường miền Đông Nam Bộ. |
Nguồn:
(Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?
“Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời
Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.
Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.
Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.
(Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.
Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.
(Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.
Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...
Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.
NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.
Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm
Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng