“Người rừng”

16:53 24/02/2009
NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

Hoàng quanh năm suốt tháng lầm lũi trong rừng già, cùng một số người làm nghề phá rừng, chuyên cưa xẻ gỗ quý. Đó là nghề duy nhất nó học được từ hơn 15 năm qua. Trong chuyến đi tìm hiểu thực tế hiện trường vụ án phá rừng, Hoàng là người dẫn đường cho chúng tôi. Nó ít nói nhưng nhanh nhẹn, mang vác hàng mấy chục kg hàng hoá trên vai mà đi nhanh hơn cả người đi tay không. Giữa bạt ngàn rừng già, ngay cả cán bộ kiểm lâm, lâm trường còn phải mở bản đồ để xác định vị trí, còn với Hoàng chỉ nhìn là biết cần đi lối nào, cắt đường nào nhanh nhất. Khi anh Tâm (Hạt phó hạt kiểm lâm Nam Đông và anh Niệm cán bộ kỹ thuật của lâm trường Hương Giang tranh luận lối đi nào, Hoàng chỉ cười, đến khi được hỏi, nó nói nhỏ nhẹ và dùng tay chỉ đường. Hướng này đi qua khe Mụ Nú, hướng này đi qua Khe Hung... Khi đoàn đến Khe Xối, nơi Hoàng cùng 4 người khác đốn hạ 3 cây gỗ quý, Hoàng nói với cả đoàn: “Các anh chuẩn bị tinh thần hỉ. Dốc cao lắm, đi mất hơn 2 tiếng đó nghe!” Nhìn dốc núi cao ngất ngưởng, cùng lối mòn mà nó gọi là đường, chúng tôi lắc đầu ngao ngán.

Bắt đầu xuất phát lúc 13h30phút, chỉ trong chớp mắt Hoàng đã mất hút giữa rừng già, cả đoàn phải gọi nó đi chậm lại chứ anh em không theo kịp. Bước chân Hoàng cứ thoăn thoắt vượt qua dốc cao, bụi rậm... Nó bảo tôi: “Đi rừng mà bác mặc áo quần như thế này khó đi lắm!” Nhìn nó chỉ mặc độc chiếc quần đùi, không giày dép gì cả, tôi hơi ái ngại, lỡ sên vắt thì sao? Nó cười thật vô tư: “Cọp, rắn hổ chúa còn không sợ, sợ chi mấy con vắt”. Tôi lè lưỡi vì bản thân rất sợ vắt. Nó cười nói: “Mặc áo quần như vậy, lỡ sên bám vào khó bắt, còn như cháu đây, sên bám thì mình giật ra ngay”. Với Hoàng, chuyến này có lẽ là chuyến đi rừng cuối cùng trong cuộc đời nó. Với tư cách là người dẫn đường, kiêm tội phạm của vụ án phá rừng nên nó rất e ngại chúng tôi. Nó không dám nói, không đòi hỏi gì dù tôi biết nó đang khát nước.

Sau khi xong việc, chúng tôi tập kết ở bờ Khe Xối, nấu cơm chiều và ngủ đêm ở đó. Ai cũng loay hoay với việc tìm chỗ ngủ. Hoàng thấy tôi như vậy mới kéo tay dẫn ra giữa lòng suối, nơ có một phiến đá to bằng chiếc giường đôi phẳng lì, nó bảo ngủ đây vừa mát, không có muỗi, sên vắt và bọ mắt. Tôi hỏi nó: “Thế giữa đêm đang ngủ, lũ quét tràn về thì sao?” Nó trả lời: “Sợ gì bác, trời này đến 10 ngày nữa cũng chưa mưa!”. Tôi vẫn áy náy, không biết có nên nghe lời nó không, vì sao đi nữa nó cũng là tội phạm, là lâm tặc, biết đâu nửa đêm nó bỏ trốn hay có hành động gì, nên quyết định ngủ chung với anh em bên bếp lửa cho chắc ăn. Buổi cơm chiều tôi theo dõi, không thấy Hoàng ăn uống gì bèn lên tiếng: “Mấy anh coi, thằng Hoàng nó không ăn uống gì lỡ đêm nó đói thì khổ lắm” Ai cũng giục nó ăn đi đừng ngại. Anh Hà công an hình sự của huyện Hương Trà nói như ra lệnh: “Ăn đi, cơ quan đã cho đi dẫn đường rồi, ở đây không có khoảng cách gì cả, chỉ là anh em, còn tội hay không là khi khác!” Hoàng chỉ dạ nhỏ nhẹ.

Đêm xuống, giữa rừng chỉ còn nghe tiếng suối róc rách, trời tối đen như mực. Hoàng xin phép đi tìm cá dưới suối, nhưng không có, cứ băn khăn mãi, ước gì kiếm được con cá, hay con gì đó... Đến giờ đi ngủ, Hoàng xin được ngủ với tôi vì tôi là nhà báo! Có lẽ Hoàng nghĩ, ngủ với tôi vui hơn với mấy anh công an hoặc kiểm lâm. Nó ôm cứng lấy tôi. Tôi khó chịu bảo nó: “Mi chi lạ rứa, sợ ma à!”. Nó thú thật, không sợ con gì cả, chỉ sợ mỗi con ma thôi. Tôi cười: “Làm gì có ma mà sợ?”. Nó nói bị ma thu một lần rồi, bị nhét cả cứt trâu vào mồm!.

Tôi được Hoàng kể về cuộc đời nó, từ nhỏ đã không học hành gì, “Học lớp một bị cô giáo phạt quỳ sơ mít, cháu đau quá, vứt miếng sơ mít vào người cô rồi chạy một mạch luôn. Thế rồi sống với rừng cho đến hôm bị bắt. Có lẽ lần này thôi không bao giờ đi rừng nữa bác ạ. Làm cả năm nhưng vẫn nợ, đến khi bị bắt đang nợ tiền cơm gạo 12 triệu đồng!”. Nó kể về việc cách đây gần 6 năm nó giết chết một con hổ: “Cháu cùng 4 người nữa đang đi vào rừng thì gặp một con cọp, nó đang vờn mồi, nhăm nhe vồ cháu. Trong tay chỉ có một mái chèo, không biết làm gì hơn, khi con hổ vồ tới, cháu dùng mái chéo đánh một phát thật mạnh, con hổ lùi lại chạy quanh tảng đá lớn. Cháu chạy ngược lại nắm được đuôi nó, khi đó không biết sợ là gì, cứ thế nắm ngược đuôi con hổ kéo xuống suối, rồi cầm một cục đá thật lớn đánh mạnh vào đầu con hổ, sau một hồi vật lộn, con hổ chết. Tất cả mọi người đều chạy trốn khi hổ xuất hiện, còn cháu đánh nó xong lấy dao mổ bụng, làm sạch bộ lòng ăn. Con hổ nặng 45 kg, đem về bán nhưng bị bọn cò mồi lừa đảo, cháu chẳng có đồng nào. Ai cũng dọa hổ mẹ sẽ trở về trả thù. Đúng thật, mấy ngày sau xuất hiện một con hổ lớn ba chân, nó từng bị mắc bẫy nên rất hung dữ. Cháu mài lưỡi rìu thật bén “thổi sợi tóc còn đứt”, tuyên chiến với hổ ba chân, nó chạy thẳng vào rừng sâu!” Tôi hỏi có thật không, Hoàng bảo: “Hôm đó, cả khu rừng náo loạn bởi chuyện cháu giết cọp. Chiếc ghe nhà cháu chở hổ về làng để đi bán mà!  Tiếc quá, ba cháu đã mất rồi, chứ không bác về hỏi ông thì biết”. Khi chúng tôi ngồi nói chuyện đi rừng nếu gặp rắn thì sao, Hoàng chỉ tủm tỉm cười: “Rắn chỉ sợ hổ mang chúa, nó vừa dữ lại độc, nên phải hết sức cẩn thận. Bắt được hổ mang chúa, nuốt mật nó, sẽ không sợ con rắn nào nữa!”.

Và, Hoàng kể chuyện bắt rắn độc giữa rừng già. Đó là một lần đi rừng, gặp con rắn hổ chúa lớn đang phùng mang chuẩn bị tấn công, Hoàng lấy cái áo quay tròn làm cho con rắn mất phương hướng, rồi lao vào nắm lấy đuôi, vuốt ngược thật mạnh, con rắn bị giãn xương sống nằm im re, thế là lấy mật nuốt và làm thịt ăn. “Ở rừng gặp rắn rết thú dữ là chuyện cơm bữa mà, không đánh nó thì nó sẽ giết mình chết ngay! Nhiều người đi rừng bị rắn cắn, đành phải lấy rựa (dao lớn) cắt luôn cánh tay, rồi mới băng bó lại. Thà đau còn hơn chết!”. Chưa hết, Hoàng còn kể cho chúng tôi một chuyện đến kinh hoàng, khi một người bạn đi rừng bị đau ruột thừa, giữa rừng sâu núi thẳm như thế này, không còn cách nào khác, mấy anh em đè người bệnh ra, lấy dao mổ bụng, cắt phứt đoạn ruột tai ác đó, rồi dùng kim chỉ may lại vết thương, sau đó lấy lá rừng mà Hoàng gọi là thuốc dấu, đắp vào vết thương để không bị nhiễm trùng, rồi mới từ từ mang người bệnh về nhà. Chúng tôi nghe nhưng có vẻ không tin. Anh Niệm, cán bộ kỹ thuật của lâm trường Hương Giang khẳng định đó là sự thật: “Chứ giữa rừng sâu, làm gì có phương án nào tốt hơn. Một là chết hai là chịu đau. Con người thì không ai muốn chết cả!”.

Những chuyện này tôi nghe nhưng không tin lắm, còn chuyện chữa bỏng cho cậu Cự một sỹ quan kỹ thuật hình sự của công an tỉnh thì chính mắt tôi chứng kiến. Bữa cơm chiều trong rừng già, khi ăn xong, chúng tôi tổ chức uống rượu với ốc suối bắt từ chiều. Sau một hồi chuyện trò vớ vẩn, cậu Cự đi ra bờ suối. Đúng lúc này, nồi nước sôi mới nấu xong được đặt xuống. Khi quay lại, Cự không để ý nhúng cả bàn chân trái vào nồi. Mọi người đều hoảng sợ, người thì bảo bôi kem đánh răng vào, người bảo nhúng nước suối, người lại nói đổ nước mắm vào... Hoàng không nói gì, đứng phắt dậy, chạy đi một lát, sau đó nhồm nhoàm nhai lá và đắp vào vết bỏng của Cự. Với ba lần đi lấy lá, Hoàng đã đắp kín vết bỏng của Cự. Sau đó chừng 2 phút, những vết lá mới đắp nóng ran. Hoàng bảo nó rút nhiệt trong chân ra đó! Chưa ai tin vào điều kỳ diệu của thuốc dấu, song sáng mai, khi cả đoàn trở về với 6 tiếng đồng hồ đi bộ, lội suối trèo dốc, chân Cự vẫn không phồng rát, đi lại bình thường, chỉ có một vết nhỏ bị bong ra do cây rừng quét phải!

Không biết chữ, chưa tiếp xúc với y tế, nhưng hầu như mọi cách chữa bệnh Hoàng đều thông thạo. Nhìn nước suối trong vắt mà không ai dám uống, dù rất khát, nhưng Hoàng vẫn uống ngon lành. Tôi hỏi Hoàng không sợ à? Nó cười: “Sợ gì! Quen rồi! Nếu đau bụng thì đã có lá rừng!”. Hoàng còn kể khi bị thương, vết thương dài hàng mấy cm, nhưng chỉ lấy lá rừng nhai đắp vào, cả tuần vẫn không bị hoại tử; nhiều người cứ để thế đến khi vết thương lành thịt thì thôi, chả cần thuốc men gì! Tôi mới chọc nó: “Mi không sợ cọp, không sợ rắn, không sợ cả kiểm lâm, mà lại sợ ma à?”. Nó cười vô tư, cháu chỉ sợ ma thôi. Hoàng kể chuyện, băng từ đỉnh dốc, nơi mà chúng tôi vừa mất hai tiếng trèo lên, và đi xuống thì mất hai tiếng rưỡi đồng hồ, nó chạy từ đỉnh xuống đây chỉ mất khoảng tám phút! Vì sao nhanh như vậy, một đoạn đường dài hơn 700 mét cơ mà, lại dốc thẳng đứng? Hoàng vô tư trả lời, vì sợ ma nên cắm đầu chạy xuống. Hai tay hai can nước 40 lít nó chỉ mất 40 phút để lên đến gốc cây gõ đó (nơi chúng tôi lên để làm hiện trường vụ án). Tôi thật sự ngạc nhiên về sức khoẻ của Hoàng, người hắn chỉ cao chưa đầy 1,65 mét, nặng 64 kg lại xách 40kg, vượt dốc dài 700 mét chỉ mất 30 phút; trong khi anh em trong đoàn, có người phải dừng lại gần nửa tiếng để lấy sức đi tiếp. Rồi hắn kể, hắn vác một phách gỗ kiền hơn một tấc đi vô tư; phách gỗ ấy ước chừng khoảng 150 kg.

Đêm nó thì thầm với tôi: “Khi chiều thấy mấy chú, bác uống rượu cháu rất thèm, nhưng không dám; mỗi ngày cháu uống khoảng 2 lít rượu; cơm không cần lắm, chỉ uống rượu thôi!”. Tôi hỏi nó: “Vì sao lại được gọi là Cu Em đại ca! mi dữ lắm à?”. “Không, cháu chỉ khoẻ và liều thôi, chứ có đánh ai bao giờ đâu, nhưng mấy chú cứ gọi như rứa vì cháu chuyên ở trong rừng!”. “Ở rừng thì liên quan gì đến “đại ca?”. Khi đó Hoàng mới thú nhận, cháu hay bị điên lắm, cứ uống vô mấy ly là bị kích động, khi đó sẵn sàng chém liền!. Không biết chữ, cuộc sống cứ lầm lũi trong rừng, Hoàng như một động vật cao cấp. Nó chẳng hiểu thứ gì cả, chỉ biết ăn no, uống say và phá rừng! Khi bị bắt vì tội phá rừng và tham gia chống người thi hành công vụ, Hoàng mới ngẩn người ra vì việc mình làm quá nghiêm trọng! Cậu ta mặt cứ xanh rờn mỗi khi bị nhắc đến việc phải ở tù vì chống người thi hành công vụ và phá rừng. Nó hỏi tôi: “Như rứa phải ở tù mấy năm bác hè? Răng mà cháu dại rứa hỉ! Thôi, cháu ở tù xong về nhà kiếm việc khác thôi, chứ làm nghề ni cực quá, mà bao nhiêu năm rồi vẫn nợ chứ có sướng chi mô”. Hoàng cho tôi biết việc nó đi rừng, mỗi chuyến đi có 5 người thường gọi là xâu, họ chỉ chuẩn bị đơn giản cho chuyến đi là cơm gạo trong vòng một tháng; mấy chục cái phao ô tô, rìu, rựa, dao, cưa, dây thừng tốt... khoảng 2 triệu đồng. Nó kể chi tiết, mỗi cái phao 40 ngàn đồng, dây thừng tốt 8 ngàn đồng một mét, còn lại anh em tự túc, người sắm rìu, kẻ sắm cưa dùng chung... Cơm gạo cho chuyến đi hết khoảng 15 triệu đồng, nếu hết thì nhắn người gửi vô, không thì cử người ra lấy. “Chuyến đi này, 5 anh em cháu ở trong rừng đúng 3 tháng khi hạ xong mấy cây gỗ đưa ra thì bị bắt, thế là mỗi thằng nợ khoảng 12 triệu đồng. Bây giờ còn phải đi tù nữa! Đi tù về không bao giờ vào rừng phá gỗ nữa, kiếm ít đất trồng cây cho rồi!”. Tôi hiểu đây là giấc mơ thật sự của Hoàng, một điều ước giản đơn, nhưng khó thực hiện với một người không có học hành, không nghề nghiệp!

Thấy Hoàng như vậy, tôi hỏi: “Rứa thích ở thành phố không?”. Hoàng cười: “Có vài lần trúng mánh em về thành phố chơi, nhậu đã đời luôn, nhưng không thích!”. “Vì sao?”. “Ở đó ồn ào quá, đi lại thấy răng răng á! Ở trong rừng sướng hơn nhiều, khỏi phải làm bộ làm tịch, ăn mặc thế nào cũng được, cởi trần chân đất khoẻ, cơm có chén thì ăn chén, không thì bốc tay!”. Hoàng cười thật vô tư!

Sau hai ngày vượt dốc lội suối, khi trở về ai cũng mỏi nhừ người, Hoàng lẳng lặng đi gom hết các vật dụng, hành trang của đoàn cho vào chiếc bao tải lớn (loại 80 kg), rồi mang nhẹ nhàng... Sau gần 4 tiếng từ khe Xối qua khe Sinh, đến ngã ba khe Sinh và dòng Hữu Trạch, đoàn tập kết nấu cơm trưa... Chỉ còn ít lon cá hộp, vài miếng thịt heo và 5 lon gạo, đủ cho một bữa cơm cuối trong rừng. Ai cũng thấy thèm rau. Hoàng vẫn không nói năng gì, cầm chiếc rựa đi mất hút, chỉ một thoáng trở về, trên tay đã có 4 đoạn măng tươi, và chúng tôi có một bữa măng ngon nhất từ trước đến nay! Trong lúc nghỉ trưa chờ ghe máy lên đón về, Hoàng tâm sự, chiều ni mấy chú cho cháu ghé nhà một chút hí? Anh Hà cười nói: “Cho mi về rồi mi trốn à! Chết bọn tau”. Hoàng bẽn lẽn: “Không, chú cho cháu cũng không trốn mô, khi nớ (hôm nhóm của Hoàng bị bắt, Hoàng đã nhanh chân chạy mất hút vào rừng, và ngày sau cả xã Bình Thành ai cũng biết nhóm này bị kiểm lâm bắt hết gỗ) mà trốn thì cháu đã chạy thẳng vô rừng rồi”.

Khi chúng tôi về đến UBND xã Bình Thành, Mẹ Hoàng, chị Hoàng bế hai đứa cháu nhỏ ra thăm. Hoàng lầm lì ít nói, nhưng trong đôi mắt đã biểu lộ tất cả, vụng về ôm hai đứa nhỏ, mắt hơi buồn... hôn lên tóc các cháu gọi bằng cậu. Bàn tay cứng, thô ráp của Hoàng vắt mũi cho các cháu rồi lại hôn..! Còn bà mẹ già thì luống cuống chào mọi người, phân bua về tội của con mình, về cảnh nghèo của gia đình... Chị của Hoàng thì thút thít xoa đầu đứa em trai, dặn dò cố gắng... Tôi lặng người trước cảnh này. Hoàng - Cu em đại ca - mới nghe ai cũng phải dè chừng, nhưng trước cảnh tượng sum họp trong chớp mắt của gia đình, ai có thể nói rằng Nó chỉ là con người vô cảm, chỉ biết phá rừng, chỉ là đại ca ngang tàng trong rừng già! Tôi chợt nhớ đến người hướng dẫn viên du lịch giỏi nhất trong rừng già Bạch Mã, anh Cảm có tài gọi chim. Vậy với Hoàng chúng ta có nên để cho cậu ta một chân giữ rừng khi đã hối cải!?
           N.T.C

(nguồn: TCSH số 194 - 04 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)

  • MINH CHUYÊN (Tiếp theo và hết)